»-(¯`v´¯)-»·.·´¯`·)»::A2::»-(¯`v´¯)-»·.·´¯`·)»
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


...everyone! eveywhere! everytime!...
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Lã Bất Vi

Go down 
Tác giảThông điệp
xuanha242
Thành viên lớp
Thành viên lớp
xuanha242


Tổng số bài gửi : 70
Join date : 13/04/2010
Age : 32
Đến từ : Tam Lộc

Lã Bất Vi Empty
Bài gửiTiêu đề: Lã Bất Vi   Lã Bất Vi Icon_minitimeSat Apr 17, 2010 2:03 pm

Lã Bất Vi SieuthiNHANH2010041710615zmywotnlzt4632
Về Đầu Trang Go down
xuanha242
Thành viên lớp
Thành viên lớp
xuanha242


Tổng số bài gửi : 70
Join date : 13/04/2010
Age : 32
Đến từ : Tam Lộc

Lã Bất Vi Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lã Bất Vi   Lã Bất Vi Icon_minitimeSat Apr 17, 2010 2:04 pm

Phần thứ nhất Thương bá

Chương 1 Quyền uy sụp đổ


Một trận mưa không to nhưng không dày và dai dẳng xuống cả vùng Cảo Kinh - kinh đô của triều nhà Chu. Trận mưa mang đến cho mùa xuân 770 trước CN một không khí ẩm ướt.
Một thời gian dài trước đó thời tiết lạnh khô đến lạ kỳ.
Trận mưa kéo dài suốt mười ngày, đúng như dự toán của ông thầy cúng. Mặc dù vậy, trong các ngôi đền, chùa vẫn mù mịt khói hương, người dâng cúng lễ vật và những người cầu mưa đều vui mừng nhìn ra giá ngoài và ê a hát lên bài cầu chúc.
Trong cung Hổ Tước, nơi mà thường xuyên được Chu vương cho sửa sang và quét vôi, những tên lính hầu và đám cung nữ luôn luôn thấy vị Thiên tử Tây Chu này đi đi lại lại. Ông ta thường cáu giận với các triều thần trong triều vì những chuyện không đâu vào đâu, buổi tối cũng không lui tới thẩm cung của các phi tần. Tiếng chuông treo trên mái hiên phát ra những âm thanh trong trẻo cũng không làm ông ta thích thú mà trái lại ông ta cảm thấy rất chói tai, bèn sai người tháo hết những cái chuông đó xuống. Vị Thiên tứ ngũ tuần này biết rằng, tâm tính khó chịu này cũng một phần là tại thời tiết. Dưới bầu trời nắng như thiêu, không có lấy một gợn mây nào ông ta mong ước có một mỹ nhân cùng với mưa xuân bay xuống. Ông ta cũng chẳng muốn quan tâm đến công việc ruộng đồng, trồng hạt. Đống kê, thóc trong kho lương thực của vị Thiên tử họ Chu cũng đủ để nuôi đám hậu duệ cháu chắt mấy đời và đám phi tần, mỹ nhân của ông ta. Hơn nữa ông ta cũng đã khoán mức thuế phải đóng hàng năm cho các chư hầu, riêng chỗ đó cũng đủ cho việc chi tiêu, ăn mặc trong vương thất. Mặc dù như vậy, Chu U vương vần mong chờ mưa xuống, không hiểu tại lý do gì. Thậm chí ông ta còn cho vời rất nhiều thầy cúng danh tiếng đến điện ở cung Hổ Tước để xem bói. Những thầy mo mặt vẽ chằng các hoa văn, họ đem đốt những mai rùa, xương thú còn dính nguyên máu tươi trên những đống than, làm phát ra những tiếng lốp bốp, sau khi nhìn thấy những vết rạn nứt ở phía trên những vật đó thì thiên cơ cho Chu U vương sẽ tiết lộ.
Trận mưa dai dẳng đó đã quét sạch bụi bẩn trên những mái hiên rong rêu trên tường, trên những thềm lan chạm ngọc đồng thời cũng tăng them nhiều màu sắc, dáng vẻ cho những cây liễu, cây mai trong ngự hoa viên của Thiên tử. Mùa xuân đã hiện diện trong tất cả các sự vật. Chu U vương cũng hiểu rỏ rằng, mùa xuân trong ông ta chính là do một người con gái mời vào cung không lâu đem lại. Đột nhiên, Chu U vương cảm thấy tinh thần phấn chấn, trong lòng sảng khoái và thoải mái như bầu trời sau cơn mưa, trong mát và thoáng đãng. Mấy tên thái giám hầu hạ bên cạnh cũng thấy ngạc nhiên. Một Thiên tử thường ngày rầu rủ ủ dột giờ đây dường như đã lột xác thành con người hoàn khác. Ông ta đứng lên đi lại, động tác mạnh mẽ khiến cho chiếc vương miện trên đầu hết nghiêng bên này rồi ngả bên kia.
Một ngày, ông ta cùng với người con gái mới đến hân lạc trong thẩm cung, ông ta cởi từng lớp quần áo trên người nàng, để lộ ra một thân thể trắng muốt như ngọc và họ bắt đầu cuộc vần vũ mây mưa. Đây vừa là “sở trường” vừa là sở thích của Chu U vương. Cô gái sau một hồi run rẩy như bị co giật mới thì thầm với Chu vương: nàng tên Bao Tự, mới 17 xuân xanh. Chu U vương nhận thấy rằng “nghệ thuật” chăn gối của Ba Tự quả không tồi, nàng như được trời phú cho cái tài nghệ này, bèn chỉ báo cho nàng chút ít. Thân hỉnh của ông ta như con rắn, lúc thì quấn quanh lúc thì lật đi lật lại, để cho nàng biết được lạc thú của chuyện gối chăn mà từ trước tới nay nàng chưa từng được biết.
Lúc Chu U vương ôm Bao Tự vào lòng, ông ta để ý tới đôi mắt long lanh và làn môi mọng như trái anh đào của nàng. Từ đó trở đi, đôi mắt và làn môi đó lúc nào cũng quanh quẩn trong đầu Chu vương.
Nhiều năm sau đó, sau khi Chu U vương bị giết chết tại Ly Sơn, Bao Tự trở thành món đồ chơi trong tay của Tây Nhung vương thì cũng là lúc trên các đường phố, ngõ ngách ở Cảo Kinh bắt đầu lưu truyền những truyền thuyết kỳ lạ về Bao Tự.
Ngày trước, vào thời suy vi thuộc nhà Hạ, có hai con rồng thần đáp xuống cung điện của Thiên tử nhà Hạ và cứ quấn ở trên hai cái cột đó không rời “Chúng ta là hai vị tiên vương của nước Bao”. Vua nhà Hạ lung túng chẳng biết làm sao, vội mới thầy cúng đến để xin chỉ thị của Thượng Đế là giết, đuổi đi hay mời ở lại. Kết quả của những lần xin đầu đều không được, bèn cầu xin tiếp. Thượng Đế phán phải xin rồng thần ban cho nước bọt, đồng thời phải cất cẩn thận chỗ nước bọt đó, có như vậy mới gặp được sự lành. Hạ vương bèn sai trải ngọc và lụa dưới cái cột trong cung, viết những lời khấn lên các thẻ tre, quì xuống cầu xin: “Kính xin rồng thần hãy ban cho nước bọt, kính xin rồng thần ban cho nước bọt”.
Hai con rồng thần đó chấp nhận lời thỉnh cầu của Hạ vương, sau khi để lại nước bọt của mình thì bay đi mất. Hạ vương sai người đựng chỗ nước bọt vào một cái hộp gỗ. Sau khi nhà Hạ bị diệt vong, cái hộp này được truyền đến đời Chu - Trải qua ba đời nhưng không có một vị Thiên tử nào dám mở ra xem. Đến cuối triều vua Chu Lệ, cũng chính là thời ông của Chu U vương, ông này bèn sai người cho mở chiếc hộp đó ra, và không ngờ chỗ nước bọt đó tràn ngập khắp trong cung, không có cách nào dọn sạch được. Lúc đó Chu Lệ vương đang ôm ấp phi tử trong lòng, thấy vậy bèn sai lệnh cho nàng ra sức gọi nước bọt. Đám nước bọt đó bỗng nhiên biến thành một con thằn lằn màu đen, bò vào hậu cung của Chu Lệ vương. Trong hậu cung có một cung nữ rất trẻ, nàng ta dẫm phải bãi nước bọt đó; sau khi trưởng thành, mặc dù không cưới gả cho ai tự nhiên mang thai, sau đó sinh được một bé gái. Cung nữ này rất khiếp sợ bèn đem vứt đứa bé gái đó đi, vào thời Chu Tuyên vương, có một đứa bé gái hát bài ca dao: “Cung nỏ bằng gỗ cây dâu, mũi tên bằng gỗ ki, tiêu diệt sạch nhà Chu”. Sau khi Chu Tuyên vương nghe được, ông ta hoang mang hết sức, bèn sai người đi khắp nơi dò hỏi, cuối cùng đã bắt được đôi vợ chồng bán cung nỏ làm bằng gỗ dâu, mụi tên bằng gỗ ki và chuẩn bị hành hình. Đôi vợ chồng nọ tìm đủ lý do để gỡ tội, họ kể trên đường họ gặp đứa bé gái do cung nữ nọ vứt bỏ. Nghe thấy tiếng nó khóc rất tội nghiệp bèn nhặt về nuôi. Đôi vợ chồng nọ đem đứa bé chạy đến nước Bao. Mười mấy năm qua đi, đứa bé nọ giờ đã trở thành một tuyệt sắc giai nhân. Sau này khi người nước Bao đắc tội với Chu U vương, sợ bị nước Chu thôn tính nên đã xin cô gái nọ cống nộp cho nước Chu để tạ tội. Bởi vì cô gái đó lớn lên ở nước Bao nên gọi là Bao Tự. Bao Tự là kết quả của câu chuyện hoang đường: thần rồng hiện hình, chỉ có thể có trong những điển tích của Sầu thời Tần.
Thực ra Bao Tự có nguồn gốc thật của mình. Nàng chính là con gái của một vị đại phu nước Bao, gia cảnh bình thường, là con nhà gia giáo, giỏi đàn hát múa ca. Năm thứ hai đời Chu U vương; ba châu: Kinh Hà, Vị Hà, Lạc Hà bị động đất, trên đường đi chạy nạn nàng đã bị lạc mất người thân, trở thành nô lệ, sau khi kẻ dưới của Chu U vương là Quắc Thạch Phụ mua về. Tên này vốn là một tên bợm quan, suốt ngày chỉ lo cách lấy lòng Chu U vương nên khi thấy Bao Tự tài sắc vẹn toàn, trong những ngày cuối của đợt mưa xuân đó đã dâng Bao Tự cho Chu U vương. Bao Tự vốn là cô gái xuất thân từ gia đình gia giáo, những ước muốn của nàng thật thanh cao, Chu U vương cũng rất biết cách lấy lòng nàng. Bên cạnh thẩm cung của chính cung Hoàng hậu bỗng xuất hiện một tòa nhà to đẹp đàng hoàng, đặc biệt Chu U vương còn cho vời những người văn hay chữ tốt đến để đặt tên cho tòa cung đó và lấy tên là Phụng Minh các. Cùng với tòa cung đó là vô vàn đồ bày biện quý giá, đám kẻ hầu người hạ nhanh nhẹn và một ban nhạc với đàn, trống, ai nấy đều áo quần súng sính. Bao Tự như bị đính chặt vào hậu cung. Trước Phụng Minh các, Chu U vương còn cho trồng vô số loài hoa như mẫu đơn, hoa hồng, hoa cúc, mai vàng, để cùng người đẹp thưởng hoa.
Một người con gái vào cung được sủng ái như vậy khiến cho bao kẻ thầm ghen tức và cũng từ đó trở thành trung tâm của những câu chuyện kỳ quái. Kể từ sau ngày người con gái đa tình ấy vào cung thì hình ảnh của nàng lúc nào cũng quanh quẩn trong đầu Chu U vương. Cả ngày lẫn đêm lúc nào Chu U vương cũng ở lại Phụng Minh các, điều này khiến cho chính cung Hoàng hậu - Thân Hậu và vô vàn các phi tần khác không tránh khỏi sự cô đơn lẻ bóng. Trong cảnh vắng vẻ đó luôn luôn nảy sinh những âm mưu độc ác và những nguy hiểm rình rập xung quanh Bao Tự.
Chính cung Hoàng hậu - Thân Hậu lúc đó chưa đầy ba mươi tuổi, bà ta là chị gái của quốc quân nước chư hầu - Thân Hầu. Bà có hàng lông mày thanh tú nhỏ nhắn, đôi mắt dịu dàng, đẹp nhưng lẳng lơ; thân hình thướt tha, mềm mại như cành liễu trước gió. Dung mạo của bà so với đám phi tần trong cung như con hạc lạc giữa bầy gà. Nhưng tính nhân hậu ở bà lại có phần trội hơn nhan sắc. Lúc vào cung bà mới mười hai tuổi, chỉ là một nàng hầu, do cần cù chăm chỉ nên được cho giữ chức Thế phụ, cai quản việc dâu tằm trong cung, không lâu sau được chọn làm cửu tần của Chu vương. Thiếp, phụ, Tần đều là những kẻ lao động trong cung, cũng là người danh chính ngôn thuận được cùng qua đêm với Thiên tử. Trong “Lễ ký. Hôn nghĩa” có chép: “Ngày xưa, sau Thiên tử lập sáu cung, ba Đại phu, chín Tần, hai mươi bảy Thế phụ, tám mươi mốt Ngự Thế”. Thân Hậu được làm phi tần mới có nhiều cơ hội gần gũi Chu U vương, sau khi được sủng ái thì sinh hạ được Thái tử Nghi Hữu và được lập làm Hoàng hậu.
Sau khi trở thành chính cung Hoàng hậu, Thân Hậu càng tỏ rõ sự hiền đức và càng cần cù cố gắng. Chu U vương thì bỏ bê công việc triều chính, thậm chí càng ngày càng đam mê tửu sắc, không để ý, quan tâm đến việc học hành của Nghi Hữu. Thân Hậu mời một thầy văn, một thầy võ vào cung dạy Thái tử học. Thầy dạy võ tên là Tản Nghi Quảng, tính tình tuy hiền lành nhưng khí phách rất cương trực, về tài kếim thuật hay võ thuật có thể nói vô địch thiên hạ. Thầy dạy văn tên Kế Nhiên, tài học uyên thâm, tính tình khảng khí trung thực. Kế Nhiên hơn Thân Hậu hai tuổi nên được bà coi như huynh trưởng và là người tâm phúc của mình. Mặc dù được hai vị thầy giỏi ở bên ngày đêm dạy bảo nhưng Thân Hậu vẫn thường lui tới để giám sát việc học hành của Thái tử, thậm chí mỗi lần Nghi Hữu học xong trở về, Thân Hậu đích thân kiểm tra những bài mà Thái tử đã học. Do hay phải lật giở những cuốn sách bằng tre nên đôi tay của Thân Hậu bị tre đâm chảy cả máu. Nghi Hữu thông minh nhân hậu, phong thái đĩnh đạc, thêm vào đó ngày ngày được hai thầy và Thân Hậu kèm cặp nên phẩm chất, văn chương, binh kiếm... tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần Chu U vương đến thăm, Nghi Hữu lại nhanh trí đọc cho phụ vương nghe một bài văn, múa một bài kiếm, Chu U vương vui đến mỗi lớn tiếng cười to. Tiếng cười của Chu U vương vang vọng khắp trong điện, khiến cho những vị đại thần đang khoanh tay ngồi đợi lệnh và đám cung nữ nhìn nhau ngơ ngác, cùng ngước mắt nhìn cái gia đình gồm ba con người chí cao vô thượng này.
Kể từ ngày Bao Tự vào cung thì chẳng thấy bóng dáng và tiếng cười của Chu U vương bên cạnh hai mẹ con Thân Hậu đâu nữa. Lúc đầu Vương hậu tỏ ra vô cùng khó chịu, oán hận Chu U vương bội phần, suốt ngày than ngắn thở dài không thiết ăn uống, thân hình tiều tuỵ. Dần dần về sau, nhờ những lời an ủi khuyên bảo hết lời của Kế Nhiên nên Thân Hậu cũng quen dần với sự lạnh nhạt, cô đơn. Nhưng Thân Hậu lại lo rằng Chu U vương quá sa đà vào khoái lạc thâu đêm suốt sáng như vậy, không những ảnh hưởng đến long thể mà còn buông lỏng kỷ cương, khiến cho cơ đồ mà tiên vương tạo dựng sẽ sớm muộn tiêu tan. Mỗi lần nghĩ đến điều này, lòng bà nóng như lửa đốt. Có lúc ba tháng không được gặp mặt Chu U vương, hoặc nếu có gặp được thì lại bị Bao Tự và đám vũ nữ trong cung mê hoặc đến hồn xiêu phách lạc, tinh thần mệt mỏi nên không còn tâm trí và hứng thú để nghe những lời chỉ giáo của Thân Hậu, nào là đạo trị quốc, dưỡng sinh... Thời gian trong cung Hổ Tước cứ lặng lẽ, vô tình trôi đi nhanh chóng. Thấm thoắt Nghi Hữu giờ đây đã tròn mười sáu tuổi, ngày mai, ngày 18 tháng 5 sẽ là sinh nhật của Thái tử. Thân Hậu muốn tổ chức lễ sinh nhật của Thái tử thật to, thật long trọng, có lẽ chỉ có lần sinh nhật này hai mẹ con nàng mới có dịp đoàn tụ với Chu U vương và cũng là cơ hội để khiến cho Chu U vương hồi tâm chuyển ý.
Trong một buổi sớm tràn đầy hy vọng và niềm hứng khởi như vậy, Thân Hậu cũng dậy sớm hơn so với mọi ngày. Sau khi trang điểm một cách rất kỹ càng, bà bắt đầu sai người đi trang trí. Buổi sớm ban mai vẫn chưa sáng tỏ; chỉ nhìn thấy bóng người lờ mờ, lay động đang chăng đèn kết hoa, bày biện, dọn dẹp. Nghi Hữu hôm nay cũng quần áo xúng xính, phong thái mạnh mẽ, đĩnh đạc, đến vấn an mẫu hậu từ rất sớm. Sau khi mọi thứ đều được chuẩn bị tươm tất, Thân Hậu đích thân đến mời Chu U vương. Đến cung Hổ Tước thì được biết Chu U vương ở chỗ Bao Tự tại Phụng Minh các. Thân Hậu đến Phụng Minh các thì gặp hai tên lính gác đang canh giữ trước chính điện, thấy bà đến chúng bèn chặn lại không cho vào. Thân Hậu thẹn quá hóa giận, một tên lính gác quèn quả là mắt không tròng, không còn nhận ra được một vị mẫu nhi thiên hạ nữa! Tên lính gác mặt nhỏ thó vội quỳ xuống, nói như muốn khóc: “Khởi bẩm Hoàng hậu nương nương, xin hãy tha tội cho chúng thần, Thiên tử đã có chỉ không cho bất cứ ai vào nếu kháng lệnh sẽ bị xử trảm, bất cứ người đó là ai, xin nương nương hãy giữ gìn hai cái đầu của chúng thần mà lui bước!”
Thân Hậu sau khi suy nghĩ một lát mới bảo: “Vậy thì được thôi, hãy vào bẩm với Thiên tử điện hạ rằng hôm nay là sinh nhật của Thái tử, lễ mừng đã chuẩn bị xong, mời thánh giá đến tham dự”.
Tên lính gác nọ cao giọng truyền những lời của Hoàng hậu tới thái giám của Phụng Minh các. Sau một hồi lâu, thái giám lại truyền đạt ý chỉ của Thiên tử tới Hoàng hậu: “Bẩm Vương hậu nương nương! Hoàng thượng bảo hiện Hoàng thượng không được rảnh rỗi, mời Hoàng hậu nương nương và Thái tử cứ tiến hành buổi lễ!”
Vương hậu giận tím mặt, nước mắt tuôn rơi. Bà hiểu rõ tính cách bảo thủ cố chấp, nóng lạnh thất thường của Chu U vương, nếu làm không theo ý ông ta thì tất sẽ có kết quả chẳng tốt đẹp gì.
Mặt trời đã lên tới nóc lầu Phụng Minh các, ánh nắng chiếu vào nóc lầu tỏa ra những tia xanh vàng rực rỡ, còn Thân Hậu thì mặt mày ủ dột. Một cung nữ đứng bên cạnh đi lên trước để dìu bà nhưng bị bà từ chối, đứng được một lúc, bà quay gót lui ra. Vừa đi bà vừa nói một mình: “Thật khiến người ta khó lòng tha thứ”.
“Vương hậu nương nương tại sao lại phải cam chịu rút lui như vậy chứ?” Một giọng nói chua cay từ phía sau Thân Hậu vọng lại.
Thân Hậu quay lại, hóa ra là phu nhân Tề Dư. Vị này vốn là nàng hầu hạng thấp của nước Tề, mồm mép nhanh nhảu, tư chất thông minh, hồi trước hay giở trò vặt để thu hút sự chú ý của Chu U vương. Kể từ hồi Bao Tự vào cung thì hoàn cảnh của nàng ta cũng không khác gì Thân Hậu, một mình một bóng, phòng đơn gối chiếc. Thân Hậu thấy mặt nàng ta lột đầy vẻ ghen tuông, thật không ngờ được rằng sau khi Tề Dư bị đối xử lạnh nhạt lại trở nên thù hận, tức tối lồng lộn điên cuồng đến như vậy.
Thân Hậu vội dừng bước, thân mật nắm tay nàng ta nói: “Đại vương sủng ái Bao Tự, chúng ta làm gì được Đại vương cơ chứ?”
Tề Dư tức tối: “Chúng ta không làm gì Đại vương, nhưng phải nghĩ cách để trị cái con tiểu yêu tinh kia chứ! Nói xấu nó, mắng nó, mời thầy bỏ bùa, dùng âm khí để bắn chết nó, dùng thuốc độc để đầu độc, làm cho nó khó ăn khó ở, ăn không ngon ngủ không yên, phát mủ chảy máu, khiến cho nó đau đớn, nói năng linh tinh rồi sẽ chết!”
Thân Hậu cười nói: “Tề phu nhân cũng chỉ nói cho bõ tức thôi, có giỏi thì làm thật cho ta xem xem”.
Đôi mắt Tề Dư đưa đi đưa lại, giảo hoạt nói: “Đúng thật, đúng thật! Cũng chỉ là lời nói chút lưỡi đầu môi, nói thì ai mà chẳng nói được. Thôi chẳng bàn đến chuyện này nữa. Hôm nay là sinh nhật của Thái tử, em cũng đến để cùng chị chung vui, em cũng có món quà xin chúc mừng!”
Thân Hậu đứng một mình ở hành lang hậu cung đang mải suy nghĩ thì bị một cung nữ va phải. Mấy ngày nay, tâm tư của Thân Hậu đang mải nghĩ về chuyện của Chu U vương và Bao Tự, nên lúc đi lại hay làm việc gì đều không để tâm.
Bị va mạnh bà như chợt tỉnh giấc mộng, nhìn kỹ hóa ra con hầu tên Quyên Chi mới vào Phụng Minh các. Đứa cung nữ mặt vẫn còn nét ngây thơ này vội vàng giấu bó rau dại đang ôm trong lòng, nhưng không ngờ dải váy bị tụt nên bó rau rơi hết xuống đất. Quyên Chi biết đã đụng phải thánh giá của Hoàng hậu nên vội quỳ xuống tạ tội. Thân Hậu nhặt bó rau dại đó lên, đó là rau hao tử tên là hương chi bồng. Hồi nhỏ lúc còn ở quê nhà bà cũng thường nhìn thấy loại rau này ở vùng sơn dã, từng khóm từng khóm một, mọc khắp cả vùng núi, khi ra hoa trông rất rực rỡ, hương thơm bay khắp nơi. Nhưng lá và cành của loại hoa này vô cùng độc, nếu dùng nước ngâm cành hoặc lá cây này trộn với thức ăn thì sau khi chuột ăn phải lập tức chết ngay. Thân Hậu trả lại những thứ đó cho Quyên Chi nói: “Bọn trẻ các ngươi đều không biết được loại rau này rất độc, đừng đem nó ra làm trò chơi”.
Quyên Chi đỡ lấy bó rau vội vàng nói mấy tiếng “Tạ ơn Vương hậu nương nương” rồi đứng dậy đi tiếp.
Khi Thân Hậu về đến cung thì thấy Nghi Hữu đùng đùng nổi giận cùng thầy Kế Nhiên kể cho bà nghe một chuyện mà mọi người trong cung đều đang bàn luận. Nước Tần dùng vũ lực để cướp mất lúa mạch của nước Bao, nay nước Bao quyết định tấn công nước Tần. Để rút ngắn đường đi nên phải mượn đường đi qua Phong Cảo. Tướng quân của nước Bao hết sức lo sợ vội đến Phong Cảo, nhưng không gặp được Chu U vương bèn cống đến hàng trăm lượng vàng, 10 con ngựa tốt, châu lụa 10 thếp, mỹ nữ 10 cô cho Quắc Thạch Phụ. Quắc Thạch Phụ vốn biết Bao Tự đến từ nước Bao nên đã nhận món lễ vật đó và nhận lời. Hai mươi vạn quân của nước Bao, chiến xa thì chắc ngựa chiến thì sung mãn hùng hùng hổ hổ tiến qua Phong Cao, đến thành Bình Dương của nước Tần sớm hơn hai ngày. Trong thành Bình Dương chỉ có một vạn quân binh. Tần vương cũng không ngờ rằng quân nước Bao tiến đến thần tốc như vậy, đợi đến khi quân tiếp viện không quản ngày đêm đến được thành Bình Dương và sau khi thành Bình Dương bị công phá thì vội ôm của cải, lương thực gái đẹp chạy ra khỏi thành Bình Dương.
Thân Hậu nghe xong, bán tín bán nghi hỏi lại: “Chuyện này có thật sao?”
Kế Nhiên miêu tả sinh động: “Hai mươi vạn đại quân của nước Bao khí thế hừng hực, khi đi qua Phong Cảo thì bụi bay mù trời, phủ dầy cả các mái ngói của thái miếu. Dân trong thành chen chúc nhau người đông như nêm đứng hai bên đường xem cảnh náo nhiệt”.
Nghi Hữu nói: “Quả đúng như vậy”.
Thân Hậu nghe xong rất đỗi lo sợ: “Nếu quả thật Quắc Thạch Phụ cho giặc đi qua thì quả là đã vượt quá quyền hạn của ông ta mà làm càn rồi!”
Kế Nhiên khẳng khái bẩm: “Khởi bẩm Vương hậu nương nương, không chỉ có như vậy mà nguy hại hơn là việc cấu kết với vua Tần sẽ gây họa lớn cho nước Chu ta!”
Nghi Hữu tiếp: “Việc này có lẽ phụ vương cũng chưa biết!”
Trong lúc ba người còn đang bình phẩm việc cho nước Bao mượn đường thì tên thái giám thường hầu ạh bên cạnh Chu U vương sấp sấp ngửa ngửa đến gặp Thân Hậu, mời Thái tử Nghi Hữu và Kế Nhiên vào triều nghị sự. Hóa ra, nước Tần bị lâm vào thế bất lợi, sau khi biết rằng nước Chu cho nước Bao mượn đường thì Tần vương trong lúc tức giận đã phái hai mươi vạn quân bao vây chặt Phong Cảo, bắt Chu U vương phải bồi thường tổn thất với hàng nghìn lượng châu báu.
Khi Quắc Thạch Phụ mặt cắt không còn hột máu bẩm báo với Chu U vương rằng quân Tần đã bao vây chặt Phong Cảo thì Chu U vương đang ở trong Phụng Minh các cùng Bao Tự hát múa hưởng lạc. Sau khi nghe bẩm báo, Chu U vương tưởng như sấm đánh bên tai, sợ quá toàn thân toát cả mồ hôi. Ông ta vội vàng đẩy người đẹp như tiên giáng thế ra, bắt bọn thái giám và lính hầu dìu mình lên thành để nhìn xuống phía dưới. Ông ta nhìn thấy quân Tần đông như nêm, bụi bay mù trời, rợp cả trời cờ Tần, áo giáp sáng loáng, bài binh bố trận, chiến xa san sát. Chu U vương căm phẫn nói: “Lại một phen làm loạn nữa rồi!”
Vị Thiên tử của Chu triều này vẫn không biết trên núi Ly Sơn đang dành cho ông ta một nơi yên nghỉ ngàn thu. Còn lúc này ông ta đang khoa chân múa tay đạo diễn một màn kịch sử diệt vong “quyền lực bá vương như mặt trời gác non tây”.
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước CN, Chu Vũ vương Cơ tiêu diệt Thương Trụ lập nên triều Chu, sau đó nối tiếp nhau các đời Vũ vương, Thành vương, Khang vương, Chiêu vương, Mục vương, Công vương, Ý vương, Hiếu vương, Di vương, Lệ vương, Tuyên vương, U vương, tổng cộng mười hai đời. Hồi đó toàn bộ ruộng đất và nô lệ trên cả nước đều thuộc về quyền sở hữu của Thiên tử Chu.
Đúng như trong cuốn “Thư Kinh. Bắc Sơn” có viết rằng: “Ruộng đất trong khắp thiên hạ, không đâu là không thuộc đất của vua; còn ở những vùng duyên hải là thuộc quyền cai quản của vương thần”. Thiên tử Chu phân cho tầng lớp quý tộc dưới mình những người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ thân thuộc với Thiên tử các vùng khác nhau của mọi miền đất nước. Những người này được gọi là chư hầu; các chư hầu lại cử những người có quan hệ huếyt thống hoặc họ hàng thân thích đến cai quản các vùng đất được phân, những người này được gọi là Khanh hoặc Đại phu; những Khanh hoặc Đại phu lại tiếp tục phân đất cho những người có quan hệ huyết thống hoặc họ hàng thân thích đến cai quản các vùng được phân, những người này được gọi là Sĩ hoặc Gia thần... Cái kết cấu xã hội thời Chu về chế độ phân chức vị, phân đất đai này cũng giống như một mô hình của Kim tự tháp. Chu vương là người cao nhất có quyền uy tối cao, chỉ cần ban bố mệnh lệnh cho các Chư hầu thực hiện, vênh mặt hất hàm sai khiến, có quyền lực vô song. Lễ nhạc, chinh phạt chỉ cần Chu vương nói một tiếng là đâu vào đấy. Các Chư hầu có nghĩa vụ là ngoan ngoãn vâng lời, phục tùng mệnh lệnh. Khi Chu Di vương lâm bệnh, thì các Chư hầu phải tổ chức buổi tế lễ tại nước mình cai trị, cầu cho Chu vương tai qua nạn khỏi. Nếu các Chư hầu có điều gì bất cẩn thì sẽ bị Thiên tử Chu trừng phạt nghiêm khắc. Tề Ai hầu chỉ biết suốt ngày săn bắn, du ngoạn, hoang dâm, không hiểu lễ pháp, Chu Di vương liền cho triệu tập các Chư hầu lại, lôi Tề Ai hầu ra ném vào đỉnh dầu ngay trước mặt các đại thần, bọn Chư hầu thất kinh khiếp đảm, mặt trắng bệch cắt không còn giọt máu. Nhưng đến cuối thời Chu, đặc biệt là thời Chu U vương mà chúng ta vừa nói đến ở trên, sau khi ông ta bị giết hại thì chín cái đỉnh cửu đỉnh bị đổ theo, miếu tổ tông cũng hoang vắng, vương quyền sụp đổ, hữu danh vô thực. Hàng trăm các Chư hầu lớn bé đều không thèm quan tâm đến Thiên tử nữa. Họ bắt đầu tranh giành nhau, chém giết lẫn nhau. Theo sự ghi chép cúa cuốn “Xuân Thu”, trong vòng hai trăm bốn hai năm có bốn trăm tám ba cuộc chiến tranh giữa các Chư hầu, có năm trăm linh bốn cuộc họp liên kết đồng minh của triều đình.
Lã Bất Vi được sinh ra giữa lúc vương quyền của Tây Chu phát triển lên đến đỉnh điểm và bắt đầu chuyển sang xã hội chính trị đa trị: Xuân thu chiến quốc.
Khổng Tử người nước Lỗ, đã từng chu du khắp vùng núi nước Tần khi đi du ngoạn nhìn những đám mây lơ lửng đã có bài văn rằng: “Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên tử xuất; Thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Chu hầu xuất. Tự Chu hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hĩ; tự Đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hĩ; bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hy bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị”. Vị thánh nhân nhìn xa trông rộng này nói thật sâu xa, nếu chúng ta đi sâu vào giải thích thì câu trên có nghĩa: “Ví như thiên hạ thái bình thì những việc như lễ, nhạc, hiệu lệnh chinh phạt... đề do Thiên tử quyết định; nếu như thiên hạ hỗn loạn thì việc lễ, nhạc, chinh phạt là quyết định bởi các Chư hầu. Khi Chư hầu quyết định việc lễ, nhạc, chinh phạt thì đến khoảng đời thứ mười rất hiếm có người kế tiếp; nếu những việc đó do Đại phu quyết định thì rất hiếm truyền được đến đời thứ năm. Nếu như Gia thần của Đại phu nắm quyền lực quốc gia thì rất ít truyền được đến đời thứ ba. Thiên hạ thái bình, quyền uy không còn nằm trong tay của Đại phu, nếu như vậy, thì nhiều người sẽ không bàn tán xôn xao”. Chúng ta hãy lấy luận đoán này trong cuốn “Luận ngữ, Lý Thị” của Khổng Tử để phân tích cục diện của Xuân thu chiến quốc, thì quả là Khổng Tử đã thật sự thấy trước được đặc trưng phát triển của thời đại. Vậy mà sự phát triển này lại đi ngược với những lý tưởng chính trị của vị đại thánh nhân này. Lễ, nhạc, bị bại hoại. Kỳ lân [1] con vật được tôn quý như vậy cũng bị mọi người tranh nhau săn bắn, Khổng Tử cũng không thể làm gì được chỉ biết than dài: “Cái đạo của chúng ta hỏng thật rồi!”
Chu U vương từ đầu thành trở về đại đường trong cung Hổ Tước. Mặt ông ta hầm hầm, cáu giận với bá quan văn võ dưới điện, quăng hết những bản tấu nghiên, bút... xuống đất, bọn cung nữ đứng sau đứa nào đứa nấy thất kinh biến sắc. Sau một lúc im lặng, Chu U vương lo sợ đảo mắt khắp cả quần thần dưới điện, cuối cùng mới cất lời: “Tần vương quả là một kẻ vong ân bội nghĩa! Quả nhân đối đãi với anh ta không còn gì đáng chê trách, giúp anh ta liên minh các chư hầu, hơn một trăm quốc quân chọn hắn làm minh chủ; thanh minh tổ chức tế lễ cũng mời hắn đến tham dự; mỗi lần quả nhân ban thưởng đều không quên phần của hắn; mùa thu khi đi săn bắn còn mời hắn ngồi trên chiến xa của quả nhân... Nhưng tên loạn thần tặc tử này lại lấy oán đền ơn, dấy binh thảo phạt quả nhân!”
Quắc Thạch Phụ quỳ xuống bẩm: “Lời của Đại vương thật có lý, hiện nay việc cấp thiết trước tiên là phải điều binh để bảo vệ xung quanh Cảo Kinh, đánh tan quân Tần để bảo vệ sự an toàn của xã tắc”.
Kế Nhiên cướp lời: “Quân binh trong thành Cảo Kinh chưa đầy mười vạn, nếu đánh một trận lớn với quân Tần thì như trứng chọi với đá thôi. Bây giờ chỉ còn cách tới núi Ly Sơn đốt lửa báo động, gõ chiêng đánh trống để triệu tập các Chư hầu lại, kêu họ phái binh tới cứu giá!”
Đối với một tên vua không bao giờ quan tâm đến việc triều chính như Chu U vương như vậy nhưng khi ra lệnh thực hiện biện pháp của vị đại thần học sĩ cũng không lấy gì làm khó khăn lắm, vội phái binh tướng đến Ly Sơn trước. Chu U vương thấy các triều thần của mình hành quân thần tốc như dòng chảy xiết liền tưởng tượng khi đến nơi sẽ có hàng nghìn vạn quân tướng đứng hai bên những con đường nhỏ uốn lượn như rắn để nghênh đón thánh giá lên Ly Sơn.
Ngọn núi Ly Sơn cao chót vót, cỏ cây um tùm, đá núi lởm chởm. Trên đỉnh núi cao tít có mấy chục cái nồi, đặt mấy chục cái trống lớn. Đây là di tích để lại từ đời Chu Lệ vương; hồi đó bởi vì Tây Nhung rất hùng hậu, nhiều lần đánh phá Cảo Kinh nên ông cho xây dựng những thiết bị này để tiện cho việc triệu tập các Chư hầu xung quanh. Mỗi khi có việc quân cấp bách bèn cho đốt phân sói trong những cái nồi đó; khói bốc tận lên cung mây, các nước Chư hầu thấy vậy liền xuất binh tướng cứu. Rồi lại đánh chiêng đánh trống nhằm giục quân nhanh đến.
Số quân sĩ mà Chu U vương phái đi đã lên đến núi Ly Sơn, châm lửa đốt cháy những đống phân sói trong nồi, một mùi tanh và khai tỏa khắp sơn cốc, những cột khói cao to lượn lờ bay lên. Tiếp đó là tiếng trống vang trời động đất. Các Chư hầu ở gần Cảo Kinh nhìn thấy tín hiệu trên núi Ly Sơn biết là Thiên tử đang gặp nguy hiểm, nên vội vã xuất quân. Nước Sở điều năm vạn quân, nước Trịnh bảy vạn, nước Tề ba vạn, nước Hoạt năm vạn, nước Ngu năm vạn, Thân quốc mười vạn. Thống soái của Thân quốc chính là Thân hầu, em của Thân Hậu. Hàng mấy trăm nghìn quân tướng của các nước Chư hầu rầm rộ kéo đến. Những vị tướng soái tinh nhuệ này khi giáp chiến với quân Tần thì liền hạ lệnh cho quân sĩ bài binh bố trận. Trống trận âm vang, tiếng ngựa chiến hí ầm trời, tiếng kêu la của các tướng sĩ dội lên tận trời xanh. Nhìn qua đã thấy quân Tần nhuệ khí giảm đi rõ rệt, thế trận hỗn loạn. Cướp lấy thời cơ này, tất cả các tướng quân của các nước Chư hầu đồng loạt hạ lệnh tấn công, hàng vạn quan, mà như hổ đói vồ mồi tiến đánh quân Tần. Lúc đó thế trận quân Tần rối loạn, xác chết như rạ trên chiến trường. Cuộc chiến đẫm máu giữa hai bên diễn ra trong vòng ba canh giờ thì kết thúc, sự thất bại nặng nề của quân Tần đã bắt đầu chấm hết cho cuộc chiến.
Trong lúc bại trận quân Tần đang lặng lẽ thu dọn chiến trận rút khỏi Cảo Kinh thì cũng là lúc trong cung Hổ Tước Chu U vương đang cho bày tiệc thưởng công chiến thắng. Sau khi Chu U vương hớn hở ban thưởng cho các Chư hầu và những triều thần có công thì những tiếng hô “Kính chúc Quốc vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”, vang lên như sấm dậy. Lần đầu tiên được chứng kiến cảnh tượng huy hoàng như vậy, Bao Tự không cầm nổi nước mắt, sau lúc phấn chấn nàng phải đứng dậy múa hát bài “Văn vương hữu thanh”. Tiếp nối những lời dạo đầu tưởng như đứt hơi khản tiếng của Quắc Thạch Phụ thì hàng trăm vũ nữ đẹp như tiên nga bắt đầu xuất hiện hai bên chính điện.
Bao Tự lộng lẫy và diễm lệ bước ra khỏi bàn tiệc tiến dần đến đại sảnh, nàng đứng giữa đám vũ nữ quả thật như hạc đứng giữa bầy gà, trong tiếng đàn nhạc như đinh tai nhức óc thì vang lên tiếng hát:
Văn vương hữu thanh,
Duật tuấn hữu thanh,
Duật cầu quyết ninh,
Văn vương chủng tai!

Văn vương thọ mệnh,
Hữu thử võ công,
Ký phạt vu sùng,
Tác ấp vu phong,
Văn vương chủng tai! [2]

Vào lúc này lựa chọn bài hát ca ngợi Văn vương diệt xong Sùng dời đô đến Phong, Võ vương sau khi dẹp yên Trụ thì định đô tại Cảo, hai việc lớn này thật là quá hợp. Thêm vào đó là sự biểu diễn uyển chuyển của Bao Tự trong điện không ngớt lời ca ngợi, tán thưởng. Nàng Bao Tự kiều diễm biết rằng những lời tán thưởng đó đều dành cho nàng nên điệu múa lại càng uyển chuyển, khuôn mặt càng thêm phần rạng rỡ.
Sau khi màn hát múa kết thúc, Thân Hầu vốn đã đứng ngồi không yên nay lập tức đứng dậy nói để các quần thần nghe thấy: “Khởi bẩm Đại vương, trong buổi lễ long trọng mừng chiến thắng này, thần được Đại vương ban tặng nên thấy vui mừng hết sức. Thần nghe nói, thưởng phạt phải phân minh, có như vậy mới cai trị đất nước một cách anh minh được. Lần này quân Tần dấy binh làm loạn, vây phá Cảo Kinh, đó là do triều đình ta đã cho nước Bao mượn đường. Theo thần được biết đây hoàn toàn không phải là thánh ý của Đại vương, mà có kẻ mạo giả thánh chỉ! Đối với những kẻ to gan không coi Đại vương ra gì như vậy cần phải nghiêm trị, để tránh hậu họa về sau!”
Những việc như Chu U vương sủng ái Bao Tự, lạnh nhạt với Thân hoàng hậu, Quắc Thạch Phụ lạm dụng quyền thế cho nước Bao mượn đường... Thân Hầu trong cung cũng đều biết hết, sau lần xả thân cứu giá lần này, ông bèn ở lại cung Thân Hậu nghỉ ngơi và ông ta cũng được biết qua lời kể của Hoàng hậu.
Con người nhanh trí như Quắc Thạch Phụ đã hiểu được ngầm ý của Thân Hầu nên vội đứng lên cùng đối chất với Thân Hầu: “Thân quốc quân, tiểu nhân không hiểu ngài nói ra những điều này là có ý gì? Lẽ nào ngài lại có ý muốn trách sự quyết đoán anh minh của Đại vương sao?”
Ý tứ sâu xa của Quắc Thạch Phụ chính là muốn nói việc cho nước Bao mượn đường là thánh ý của Chu U vương, những lời nói gian trá, hoàn toàn bịa đặt này đã khiến cho toàn thể triều thần xôn xao bàn tán.
“Nhà ngươi đã giả truyền thánh chỉ!” - Thân Hầu mặt đỏ tía tai quát lớn.
“Nhà ngươi có chứng cứ gì cho là Đại vương không ban thánh chỉ này?” - Quắc Thạch Phụ thản nhiên hỏi lại.
Cuộc tranh cãi giữa hai vị đại thần làm Chu U vương như bị rơi vào đám sương mù, ông ta lẩm bẩm một mình: “Quả nhân nhận lời chuyện này từ bao giờ chứ?”
Quắc Thạch Phụ nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của Chu U vương nên đã nhân cơ hội đó tiếp: “Khởi bẩm Đại vương, hôm đó lúc Đại vương cùng phi tử Bao Tự đang ngắm hoa mai ở trong Ngự hoa viên, hạ thần đã dẫn quốc quân của Bao quốc đến yết kiến Đại vương nhưng Đại vương không tiếp, người hỏi thần có việc gì. Thần thưa, quân binh nước Bao muốn mượn đường qua Cảo Kinh của ta. Đại vương bảo thì cứ cho họ mượn là xong!”
Quắc Thạch Phụ nói xong, bèn đưa mắt nhìn Bao Tự cầu xin sự cứu viện, Bao Tự hiểu ý, cũng thêm vào: “Đại vương người quên rồi sao, đúng là có chuyện ấy. Lúc đó thiếp còn nói đùa một câu rằng không thể cho mượn không được mà phải trả tiền mua đường”.
Chu U vương đã nói như vậy thì Thân Hầu cũng không tranh luận thêm nữa. Nhưng trong lòng Thân Hầu hiểu rõ Quắc Thạch Phụ và Bao Tự đã thông đồng với nhau, lừa gạt Thiên tử nhằm che đậy những sai trái. Bản nhạc thứ hai bắt đầu cất lên nhưng Thân Hầu không còn hứng thú gì nữa bèn cáo từ, đến thẩm cung của chị gái nghỉ ngơi. Thân Hầu thấy chị gái mặt mày ủ dột, khí sắc kém tươi bèn bảo ngày mai khi khởi quân về nước sẽ xin cho Thân Hậu về cố quốc để giải phiền cho khuây khỏa. Thân Hậu bảo việc này phải xin ý của Đại vương. Nhưng Kế Nhiên đứng bên cạnh nhắc Hoàng hậu rằng, năm ngày nữa sẽ là tết trùng cửu (ngày 9 tháng 9), Đại vương phải đi tế lễ. Mỗi lần như vậy, Hoàng hậu nương nương cũng phải đi cùng.
Trước lúc Thân Hầu và chị gái mình chia tay, Thân Hậu vẫn lưu luyến không muốn rời, dặn dò em trai đợi khi nào cùng Đại vương cúng tế xong sẽ về Thân quốc để giải phiền tĩnh dưỡng. Thân Hầu để ý thấy rằng tuy nói những lời này nhưng trên nét mặt chị gái mình đang giấu một nỗi buồn mà từ trước tới nay Thân Hầu chưa thấy bao giờ, thật kỳ lạ và khó hiểu. Nhưng cuối cùng Thân Hầu cũng hiểu ra cái điều mà chị gái mình đang thiếu.
Cái bụng Bao Tự mỗi ngày một lớn và cuối cùng đã sắp đến ngày khai hoa kết quả. Trước khi đứa bé được ra đời thì tin không biết từ đâu đưa đến rằng: Chu U vương đã nhận lời với Bao Tự, nếu sinh con trai sẽ lập đứa bé làm Thái tử. Lời đồn đại như vậy truyền đi mọi nơi và đến tai Thân Hầu và nó như tiếng sét ngang tai Thân Hậu và Nghi Hữu. Nghi Hữu như con kiến bị ném vào mồi lửa, nóng lòng muốn đi tìm Thân Hầu để cùng bàn bạc đối sách. Những tin đồn nhảm rác rưởi đó khiến cho Thân Hậu đau đớn vô cùng, ngày ngày than khóc. Kế Nhiên không tin lắm vào lời đồn này, ông nói với Thân Hậu và Nghi Hữu rằng, Bao Tự sinh con trai hay con gái giờ đây vẫn còn chưa rõ, làm sao có căn cứ gì để nói đến việc lập Thái tử. Hơn nữa, việc lập Nghi Hữu làm Thái tử, Đại vương đã tuyên chiếu khắp thiên hạ. Thiên tử đại Chu, nhất ngôn cửu đỉnh, làm sao có thể sớm ra lệnh tối lại bãi bỏ được? Huống hồ Nghi Hữu giữ gìn phép tắc, chuyên tâm học hành, văn thao võ lược, khoan hậu yêu dân, phàm những ai đã từng tiếp xúc với Thái tử đều phải kính nể, phế cũ lập mới, có cái gì làm căn cứ.
Cho dù câu nào của Kế Nhiên cũng đều có lý, vô cùng sắc sảo nhưng Thân Hậu vẫn cảm thấy không yên tâm, tư tưởng không tập trung, bà muốn yết kiến Chu U vương để hỏi rõ nguồn cơn.
Hôm nay, Thân Hậu lấy tất cả vàng bạc chấu báu, đồ tế nhuyễn cất từ trong rương ra. Trong đó vẫn còn hai xếp lụa màu mà bà thích nhất. Khi bà vuốt lại tấm lụa mát như ngọc ấy, một ý nghĩ bỗng hiện ra. Bà sai cung nữ mang hai xếp lụa này đến Phụng Minh các, bà muốn đem tấm lụa quý mang từ nước Tề này tặng cho Bao Tự, có lẽ như vậy sẽ biết thêm chút gì đấy.
Thân Hậu đến Phụng Minh các thì đã có cung nữ thông báo cho Bao Tự biết. Bao Tự đi đến hành lễ với Thân Hậu, bảo cung nữ nhận lấy chỗ lụa. Mới trò chuyện được vài câu thì Bao Tự lãnh đạm hỏi Hoàng hậu nương nương có gì dặn dò. Thân Hậu thấy thái độ không có gì mặn mà của Bao Tự bèn đứng dậy ra về.
Không lâu sau, trong cung có tin đồn rằng Bao Tự đã dùng chỗ lụa đó để may áo cho ngựa của Thiên tử. Thân Hậu bèn sai một cung nữ thân tín nhất đi nghe ngóng, khi đến chuồng ngựa của Phụng Minh các quả thấy đúng như vậy.
Lúc này, Thân Hậu mới hiểu rõ rằng bà đang bị xúc phạm ghê gớm. Đường đường những tấm lụa mà một vị mẫu nghi thiên hạ ban thưởng lẽ nào chỉ đáng may áo cho ngựa sao? Mấy đêm rồi Thân Hậu thức trắng không ngủ, tự nhốt mình trong tẩm cung, nước mắt ròng ròng. Nghi Hữu cũng đã biết rõ ngọn nguồn của sự việc thông qua đám cung nữ. Sau những đêm trằn trọc không ngủ cuối cùng anh ta cũng nghĩ ra cách để rửa nhục cho mẫu hậu.
Tiếng gà gáy sáng đổ dồn và ý nghĩ muốn báo thù Bao Tự đã làm cho Nghi Hữu giật mình tỉnh giấc. Nghi Hữu bắt đầu chuẩn bị để “ra trận”. Anh ta chân tay rối loạn ngắt hết những bông hoa trong vườn của Phụng Minh các, hành động của anh ta cũng làm cho lũ ong, bướm giật mình ngơ ngác, những cánh hoa bay lả tả khắp nơi.
Đám cung nữ trong Phụng Minh các ra ngăn anh ta lại, chúng bảo vườn hoa này là do Đại vương sai trồng để nương nương Bao Tự thưởng ngoạn. Đám cung nữ đi theo Nghi Hữu cũng không chịu lép vế bảo rằng chính Hoàng hậu múôn ngắt bỏ hết chỗ hoa này đi, ai dám ngăn cản. Từ trong phòng Bao Tự đã chứng kiến hết đầu đuôi sự việc, nàng xuất hiện, trông giống như một đóa hoa vĩ đại đang nở trong vườn hoa trước Phụng Minh các.
Bao Tự bước ra với cái bụng vượt mặt, lớn tiếng: “Kẻ nào dám làm loạn vậy? Trong mắt các ngươi còn có Bao nương nương này hay không?”
Nghi Hữu từ chỗ nấp giữa những cây hoa bước ra, thấy Bao Tự huênh hoang như vậy, mắt anh ta long lên lòng sọc. Vừa nghe thấy bà ta xưng là “nương nương”, bèn chạy nhanh đến nắm tóc bà ta đồng thời thượng cẳng chân hạ cẳng tay, mắng mỏ: “Con tiện nhân này, ngươi chỉ là một đại phu vô danh tiểu tốt vậy mà dám lộng xưng “nương nương”, thật là không biết xấu hổ! Hôm nay bổn Thái tử đến dạy cho ngươi một bài học!”
Cung nữ của hai phe biết rằng Bao Tự đang mang thai rồng, sợ gây ra chuyện không hay, vạn nhất có gì sai sót thì không biết làm sao, vội đồng tâm hiệp lực kéo Nghi Hữu ra. Nghi Hữu đã trút được mối hận trong lòng, khoát tay ra hiệu cùng đám hơn chục cung nữ nghênh ngang bỏ đi.
Bao Tự nhìn thấy cảnh tượng hoa rụng lả tả trên mặt đất, lại còn đầu tóc bù xù bất giác bật òa lên khóc.
Chu U vương đã lâu không lên triều, hôm nay đột nhiên đến cung Hổ Tước lật giở đống tấu chương cao như núi, sau khi rời cung thì lại gặp Bao Tự đầu tóc rối bời, nước mắt lã chã đòi Đại vương cứu lấy mạng mình và đứa trẻ trong bụng. Sau khi biết được nguồn cơn sự việc, Chu U vương cáu giận đùng đùng, mắng Nghi Hữu là đồ súc sinh ngỗ ngược.
Tiếp đó Bao Tự lại thêm thắt bịa đặt: “Thái tử mồm vẫn chưa hết hơi sữa, hành động vô lễ , thô bạo đối với thần thiếp có lẽ là do chủ ý của Vương hậu nương nương và Quốc cữu!”
Chu U vương hạ chỉ phạt Nghi Hữu ba mươi roi, cho đến nước Thân đóng cửa tự suy nghĩ về hành động của mình; Thái học sĩ Kế Nhiên dạy dỗ không nghiêm khắc phạt bãi bỏ chức quan giáng xuống làm thứ dân. Hoàng hậu sau khi cầu xin U vương niệm tình tha thứ, nhưng bị ông ta lớn tiếng quát mắng, chỉ còn biết đau xót nhìn thấy con trai của mình bị đánh đến trầy da róc thịt rồi bị đưa đến nước Thân mà thôi.
Mấy ngày nay Bao Tự lúc nào cũng cản thấy da thịt ngứa ngáy khó chịu, nàng ta cũng không để ý lắm, cho rằng đó là do nàng đang mang thai; còn Chu U vương thì nhẹ nhàng xoa xoa giùm nàng. Mấy ngày sau, Bao Tự phát hiện thấy toàn người rộp đỏ, có vài chỗ có nốt nổi lên, sau khi châm cho vỡ thì thấy có nước mủ màu vàng đục chảy ra. Chu U vương vội cho truyền ngự y đến. Sau khi ngự y khám xong, bảo đây không phải là bệnh lâu ngày khó chữa, chỉ là do khi tắm gội nước độc ngấm vào gây ra bệnh, chỉ cần dùng một ít cao tán là có thể trị khỏi. Chu U vương cho người kiểm tra lại chỗ hoa cỏ thơm dùng cho Bao Tự khi nàng tắm thì phát hiện trong đó có rất nhiều hoa hương chi bồng độc, bèn cho gọi bốn đứa cung nữ hay hầu hạ Bao Tự lúc tắm lại, tra khảo nghiêm khắc, nếu không khai thành thật sẽ bị xẻ thịt nấu nhừ. Bốn đứa cung nữ này nói chắc như đinh đóng cột, đều nhận là không làm. Bao Tự bảo Chu U vương, bốn đứa cung nữ này không có gan to như vậy đâu, e là do người ấy làm. Chu U vương hỏi người đó là ai, Bao Tự nói rằng do Thân Hậu gây ra.
Chu U vương nổi giận lôi đình cho gọi Thân Hậu đến cung Hổ Tước để điều tra sự tình, Thân Hậu nói bà không hề hay biết gì về chuyện này. Chu U vương hỏi có phải chính Thân Hậu làm việc này không, Thân Hậu oan ức quá bèn bật òa lên khóc, bà còn thề với trời xanh rằng nếu có ý xấu với Bao Tự thì trời chu đất diệt, chết không yên thân. Bởi vì Chu U vương chưa có bằng chứng xác thực gì, nên sau khi páhn “đợi ta làm sáng tỏ sự việc rồi sẽ hỏi tiếp” bèn rũ áo bỏ đi.
Chu U vương trở lại Phụng Minh các, ngọt ngào an ủi Bao Tự, nói nhất định sẽ tìm ra kẻ nào đã hại nàng, sẽ chặt chân cắt tay, mổ ruột moi tim nó ra để báo thù rửa chục cho nàng. Sau đó ông ta cho gọi quan trấn phủ, quan coi sự việc trong hoàng cung và quan cai quản lũ binh lính bảo vệ bên cạnh Chu vương lại, bắt họ phải nghiêm khắc tra xét tất cả đám phi tần, cung nữ, thái giám và bọn tạp dịch trong cung.
Chuyện vừa xảy ra với Bao Tự cũng làm Thân Hậu được an ủi đôi chút. Nhưng khi nghĩ đến sự tra khảo ghê gớm của Chu U vương thì niềm vui nho nhỏ mà bà vừa cảm thấy đã bị nỗi sợ làm tan biến đi. Bây giờ trong lòng bà chỉ còn nỗi lo sợ. Bà ngồi một mình trong thẩm cung để lục lại trí nhớ của mình. Bà nhớ lại cảnh tượng ngày hôm sinh nhật Thái tử, bà đến Phụng Minh các mời Đại vương thì đụng phải Quyên Chi. Thân Hậu chỉ nhớ nàng hầu đó tên Quyên Chi còn mặt mũi hay thân thế của Quyên Chi thì bà cũng không được rõ. Thân Hậu đoán việc này mười phần thì có đến tám, chín phần là do con hầu đó làm. Nhưng đứa cung nữ vô danh đó thì có thù hằn gì với Bao Tự cơ chứ? Hay là có người sai nó đi làm chuyện này mà lại dám cưỡi lên đầu hổ? Thân Hậu quyết định đi tìm con hầu đó để hỏi cho ra nhẽ.
Con hầu Quyên Chi này là họ hàng xa của Tề Dư. Trước kia vốn ở Tề quốc trồng sen, sau được Tề Dư tiến cử vào cung làm việc. Thân Hậu đoán quả không sai, chỗ hương chi bồng đó là do nàng bỏ vào. Nhưng điều Thân Hậu không ngờ tới đây chính là do Tề Dư chỉ thị.
Khi thấy Quyên Chi mặt mày thanh tú, trong lòng Hoàng hậu thấy hơi buồn, bà thầm khen: “Con bé này quả là xinh đẹp” Quyên Chi vẫn quỳ bên dưới đợi sự cho phép của Thân Hậu. Vương hậu sau khi quan sát Quyên Chi một lượt mới hỏi: “Nhà ngươi là Quyên Chi, cung nữ trong Phụng Minh các ư?”
Quyên Chi gật đầu. Hai mắt Thân Hậu nhìn chằm chằm vào Quyên Chi hỏi: “Bây giờ trong cung xảy ra chuyện chắc ngươi cũng biết rồi chứ, phi tử Bao Tự bị nước độc của những cành hương chi bồng đó làm cho phồng rộp cả da rồi”.
Lúc bấy giờ Quyên Chi cũng đã nhớ lại chuyện hôm nàng giấu bó hương chi bồng thì đụng phải Thân Hậu, bị bà phát hiện. Nàng cho rằng Thân Hậu đã biết việc nàng làm, việc đã đến nước này thì e rằng cũng như giấy không bọc được lửa. Nghĩ đến đây, nàng không thấy cần phải giấu diếm gì nữa: “Chẳng phải Hoàng hậu đến hỏi ai đã cho chỗ lá độc đó vào trong chậu nước tắm của phi tử Bao Tự ư? Khởi bẩm Hoàng hậu nương nương, việc này là do Quyên Chi làm, quả thật là do Quyên Chi gây ra!”.
“Ai đã sai ngươi làm như vậy?”
“Dạ bẩm không ai sai nô tỳ cả, là nô tỳ can tâm tình nguyện làm”.
“Nhà ngươi với Bao Tự chẳng có thù oán gì, tại sao lại hại cô ta cơ chứ?”
“Bao Tự đã dùng tài sắc của mình để mê hoặc lừa dối Đại vương, làm mất cả kỷ cương xã tắc, lòng dân oán hờn! Nô tỳ nghĩ rằng mọi người và cả Vương hậu nương nương nữa có lẽ rất căm hận bà ta!”
Mấy câu nói này của Quyên Chi công thêm sự nói năng lưu loát, đứng trước nguy hiểm mà không run sợ đã khiến cho bà cảm thấy mến phục nàng. Thân Hậu bảo: “Bình thân. Đứng dậy nói đi”.
Quyên Chi đứng dậy, mặt nghiêm nghị: “Việc đã đến nước này, muốn chém muốn giết xin tùy ý Đại vương và Vương hậu nương nương!”
Vương hậu cười rất tươi bảo: “Nhà ngươi hãy lui ra đi, việc này chớ nên nói với ai vội”.
Khi Quyên Chi lui ra thì cũng là lúc nàng ý thức được rằng sẽ có máy chém và vạc dầu hay tương tự như vậy đang chờ để róc thịt róc xương nàng. Khi nghĩ đến đây toàn thân nàng bất giác run rẩy. Tội chết chắc không thể tha được. Nhưng nghĩ đến xác thịt của mình bị đày đọa trước khi chết nàng cảm thấy vô cùng sợ hãi, nàng muốn tự nàng kết thúc vận mệnh một cách nhẹ nhàng. Nghĩ vậy, nàng bèn đi về phía cái giếng gần chuồng ngựa của Phụng Minh các. Tận mắt nàng chứng kiến một tên thái giám vì phạm tội mà nhảy xuống giếng tự tử, khi được vớt lên, sắc mặt nhợt nhạt như đang ngủ say, chẳng có chút gì đau khổ cả.
Khi Quyên Chi quyết định đi thẳng tới cái giếng đó, nàng dường như ngửi thấy mùi của những cây thực vật mục nát xung quanh giếng, nhìn thấy mảnh trời xanh nho nhỏ trong lòng giếng. Quyên Chi nghe thấy sau lưng có tiếng người gọi nàng, âm thanh đó lúc rõ lúc không, phảng phất bên tai giống như trong ảo mộng. Nàng quay đầu lại nhìn thì thấy một người đàn ông thân hình vạm vỡ như chiếc đỉnh, đã lớn tuổi đi về phía nàng. Nàng biết người ấy, ông ta là Lã Nhượng, là người canh cửa tại Thủ Cung của Phụng Minh các. Mỗi lần Quyên Chi ra khỏi cung đều thấy ánh mắt thân thiện của người đàn ông có thân hình như con gấu ấy chào nàng, nhưng không hề nói một lời nào.
Lã Nhượng hoảng hốt bảo Quyên Chi: “Hiện nay trong và ngoài cung đang lan truyền rằgn Quyên Chi là người bỏ những cành lá độc đó vào trong nước tắm của Bao Tự, lát nữa Đại vương sẽ cho người đến bắt cháu, cháu mau chạy trốn đi!”
Bỏ trốn? Điều này Quyên Chi vẫn chưa nghĩ đến. Chạy như thế nào đây? Chạy đi đâu? Ánh mắt Quyên Chi hướng về phía Lã Nhượng như muốn dò hỏi.
Lã Nhượng bảo ông ta có chìa khóa của cửa hậu trong cung, bây giờ muốn để nàng chạy trốn. Ông còn dặn sau đó hãy đến thẳng nước Thân, Thân Hầu và Thái tử Nghi Hữu sẽ giúp nàng ẩn giấu tung tích.
Khi Quyên Chi đã ra đến ngoài vẫn thấy Lã Nhượng đứng chôn chân nhìn ra phía nàng. Nàng chấn chỉnh lại xiêm áo, quỳ xuống đất hướng về phía Lã Nhượng khấu đầu ba cái rồi đi theo con đường quanh co trước mắt, chẳng mấy chốc bóng nàng đã mất hút phía xa.
Nhiều năm sau đó, sau khi nhân vật chính của cuốn sách này - Lã Bất Vi - trở thành một vị Tể tướng quyền lực vô biên tiếng tăm muôn trượng, ông ta thường quỳ trước tấm gia phả bằng lụa vàng treo trên bức tường phía nam trong phủ Tể tướng. Nếu lấy đời ông ta làm mốc tính ngược lên trên mười một đời sẽ tìm thấy một vị tổ tiên từng canh giữ cửa Thủ cung cho Bao Tự, vị tổ tiên này chính là Lã Nhượng. Lúc đó Lã Bất Vi liên tưởng đến người cha của ông ta, Lã Hâm đã từng làm người gác cửa Thủ Cung nước Vệ. Ông ta lờ mờ hiểu được rằng lịch sử giàu sang của gia tộc Lã Thị có một chút dư vị của quy luật luân hồi.
Vị tổ tiên tốt bụng, giúp người lúc hoạn nạn của Lã Bất Vi sau khi giúp cho Quyên Chi chạy trốn, lại khóa cửa lại như cũ. Lã Nhượng biết rõ rằng một trận trừng phạt kinh thiên động địa sẽ diễn ra trong bốn bức tường của cung điện nguy nga tráng lệ này.
Sau khi Quyên Chi đi khỏi, Thân Hậu luôn luôn nghĩ tới và cảm thấy nếu để cho người cung nữ dũng cảm phi phàm này trở thành hồn ma dưới lưỡi đao của Đại vương thì thật là đáng tiếc và có tội. Bà quyết định sai cung nữ sang mời Tề Dư để cùng bàn bạc làm thế nào để cứu Quyên Chi. Con hầu trở lại rất nhan, lúc trở về mặt cắt không còn hột máu kể lại với Thân Hậu. Quyên Chi bỏ trốn thoát tội, nhưng Tề Dư bị Đại vương trừng phạt, bà ta bị ném vào chảo dầu nấu chín.
Sau khi cung nữ lui ra, bỗng nhiên bà nhớ tới một câu mà thái học sĩ Kế Nhiên dạy Thái tử Nghi Hữu học bài: “Kinh tâm động phách”. [3]
Dưới bầu trời thu xanh thăm thẳm, từng đàn chim nhạn bay từ bắc sang nam, sau những tiếng kêu thê lương những thân chim như những chiếc mỏ neo từ từ hạ xuống hai bên đường từ Cảo Kinh đến Ly Sơn. Đội ngũ cúng tế với lọng, cờ quạt rực rỡ của Chu U vương cũng đang đi về nơi cần đến.
Từ trước tới nay chưa bao giờ thấy có mặt Bao Tự tại buổi tế lễ trùng dương hàng năm, bà ta luôn mong ngày này để có dịp tham dự vào không khí náo nhiệt. Một số đại thần khuyên Chu vương, Bao Tự bụng đang mang thai, nên sắc khí không được trong sạch e sợ sẽ làm ô ếu đến các đấng thần linh. Hơn nữa không đem theo Thân Hậu đi cùng cũng là đã làm trái với lễ nghi. Quắc Thạch Phụ đỡ lời: lễ, nhạc chinh phạt đều do Thiên tử quyết định; những lời, những việc mà Đại vương đã nói và làm đều là những điển lễ mà vạn dân phải tuân theo. Trước khi khởi hành, Chu vương ban chiếu, cho Bao Tự đi cùng thánh giá đến lễ tổ ở Ly Sơn còn Thân Hậu ở hậu cung muốn làm gì thì làm.
Thân Hậu thấy Chu vương chỉ mang theo Bao Tự đến Ly Sơn, bỏ mặc mình ở lại thì trong lòng sốt ruột không yên. Sau khi Chu vương khởi hành, bà quyết định đến Thân quốc, chỗ của Thân Hầu nghỉ ngơi, đồng thời thăm Thái tử Nghi Hữu. Sau khi chuẩn bị chu tất bèn cho người đi sửa soạn chiếc kiệu long phụng có người khiêng chuyên dùng cho Hoàng hậu; đến lúc đó mới hay chiếc kiệu đó đã dành cho Bao Tự đi Ly Sơn rồi, bà đành phải ngồi kiệu do xe ngựa kéo dành cho đám phi tần. Đoàn người của Thân Hậu rầm rập tiến đến cửa thành của Thân quốc, một cung nữ đến báo cho tên lính coi giữ cổng thành. Ngày trước Thân Hậu đi đâu đều dùng kiệu long phụng, như vậy mới xứng đáng với thân phận của bà. Lần này bọn coi thành thấy đâu không phải là kiệu long phụng mà kiệu sơn đỏ dành cho bọn phi tần nên người ngồi trên kiệu kia nhất định không phải là Hoàng hậu nương nương, nên chúng không cho đi qua, Đám cung nữ cũng cãi lý với bọn lính gác, Thân Hậu thấy vậy bèn vén rèm kiệu lên, hé mặt ra hỏi có chuyện gì: Lẽ nào chúng ta giả mạo không thành ư? Bọn lính lúc đó mới nhận ra đúng là Hoàng hậu nương nương tôn quý nên vội cúi chào nhường đường.
Khi Thân Hậu đến phủ Thân Hầu thì thấy Thân Hầu đang cùng đám văn võ quan bàn việc khai hoang trồng trọt. Hồi đó là “đất đai trên khắp thiên hạ đều là đất của vua”, ruộng đất trên toàn quốc được phân thành những ô vuông giống như chữ “tinh” (nghĩa là giếng), ruộng đất này đều thuộc quyền sở hữu của Chu vương, Chu vương phân cho các Chư hầu, mỗi năm họ phải nộp một khoản thuế nhất định. Cùng với sự nâng cao về năng lực sản xuất, đặc biệt là việc sử dụng những dụng cụ làm bằng sắt trong việc cày ruộng và trồng trọt, một số chư hầu đã bí mật khai hoang để thêm ruộng, vì vậy ngoài những thửa ruộng chữ “điền” thì bắt đầu xuất hiện một số lượng lớn “tư điền” (ruộng riêng). Lúc mới đầu, Chu vương không chấp nhận “tư điền”. Nhưng về sau “tư điền” càng ngày càng nhiều, Chu vương chẳng còn cách nào khác đành phải thu thuế đất, điều này chứng tỏ trên thực tế đã chấp nhận sự tồn tại của “tư điền”, như vậy, cơ sở kinh tế của triều Chu - chế độ “tỉnh điền” - bắt đầu bị tan vỡ. Số lượng “tư điền” mà các chư hầu có thường thường trở thành một loại tượng trưng cho uy vọng và thực lực của người đó.
Chiếc xe chở Thân Hậu dừng hẳn, Thân Hậu được đám cung nữ dìu xuống xe. Vừa xuống xe đã thấy Thân Hầu và toàn
Về Đầu Trang Go down
xuanha242
Thành viên lớp
Thành viên lớp
xuanha242


Tổng số bài gửi : 70
Join date : 13/04/2010
Age : 32
Đến từ : Tam Lộc

Lã Bất Vi Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lã Bất Vi   Lã Bất Vi Icon_minitimeSat Apr 17, 2010 2:06 pm

Chương 2 Bỏ quan tòng thương


Giữa trưa hè trời xanh trong không một áng mây, Lã Bất Vi là công tử trong một gia đình có cha làm nghề gác cổng ở thành Bộc Dương, như trút được gánh nặng khi học xong khóa cuối cùng ở trường tư thục, hành lý nặng trĩu thư tịch rời khỏi nhà sư phụ Bá Hạ. Nghiệp học hành mười năm gian khổ cuối cùng đã hoàn thành mỹ mãn, con đường tiến thân của Lã Bất Vi như được trải thảm hoa. Công tử họ Lã đón ánh nắng mặt trời, tràn đầy tin tưởng về tương lai.
Bá Hạ là một người thầy có óc kinh luân, dạy hỗ học trò không biết mệt mỏi. Thầy Bá Hạ đặt niềm hy vọng rất lớn vào Lã Bất Vi - người học trò ông thương yêu nhất.
Lã Bất Vi quay đầu lại, cúi chào nói: “Thầy không phải tiễn con nữa, gia phụ bảo hai ba hôm nữa sẽ mở tiệc rượu để cảm tạ công ơn dạy dỗ của thầy”.
Thầy Bá Hạ nhẹ nhàng nói: “Bất Vi này, về nói với lệnh tôn đại nhân đừng có lãng phí”.
Bất Vi vui vẻ bước đi, bước chân khoan thai nhẹ nhàng. Chàng năm nay mười chín tuổi, to cao khỏe mạnh, đôi mắt sáng sắc ẩn dưới đôi lông mày lưỡi mác đen và rậm, cánh mũi to tròn chỉ có điều nhân trung hơi dài. Theo thuyết tướng số, con người này phúc họa luôn đi liền nhau, vinh quang đấy mà cũng cay đắng đấy. Quanh cằm Bất Vi lún phún ria mép, biểu hiện của sự trưởng thành. Lã Bất Vi là một chàng trai khôi ngô tuấn tú.
Trường học của thầy Bá Hạ cách thành Bộc Dương không xa, chỉ qua con sông Bộc Dương xanh biếc hiền hòa là tới. Vì vậy Lã Bất Vi có thể nhanh chóng vào thành, hòa mình vào những con đường phồn hoa náo nhiệt. Rẽ vào một góc đường, Lã Bất Vi thấy rất nhiều người tụ tập. họ ghé tai thì thầm với nhau dường như là đang bàn luận về một vấn đề gì hiếm lạ kỳ quái!
Mười năm nay Lã Bất Vi không hề biết chuyện ngoài xã hội, chỉ toàn tâm toàn ý đọc sách thánh hiền. Mặc dù hàng ngày đều đi qua đường ngang ngõ dọc nhưng không hề dừng chân quan sát tò mò hỏi han. Ngày hôm nay việc học đã xong, nên cũng muốn nghe ngóng chuyện hiếu kỳ, bèn thẳng tiến hòa vào đám người đông vui nhộn nhịp. Rất nhanh Lã Bất Vi đã hiểu ra mọi chuyện.
Vào một đêm sáng trăng, một con rắn độc đã cắn chết công tử Nộ Khiên. Con rắn đó thân dài mười trượng, vằn đen trắng, trườn nhanh thoăn thoắt, dưới ánh nến và gươm của hàng trăm quân lính nó lẩn mất không thấy tăm hơi. Vua Vệ Nguyên quân trong những ngày đau thương buồn bã đã mời thầy mo đến xem bói và đem kết quả dán ở ngoài cổng thành: con rắn này chính là do yêu ma biến hóa thành, hiện vẫn đang ẩn nấp trong thành Bộc Dương, mong rằng quần chúng nhân dân chú ý cảnh giác và tìm bắt.
Lệnh thư của vua ban bố chưa được bao lâu thì trong cung lại truyền ra một cách lý giải khác. Có người nói con rắn đó là do An Ly vương của nước Ngụy thả ra với ý đồ để nó cắn chết Vệ Nguyên quân, nhưng kết quả lại không như ý muốn. Nguyên do là vào năm thứ 31 đời Vệ Hoài quân, Quốc vương đến nước Ngụy triều cống. An Ly vương đã tống giam Hoài quân vào ngục rồi giết chết, đưa con rể của mình là Vệ Nguyên quân lên làm Quốc vương. An Ly vương muốn biến một huyện nhỏ của nước ngụy thành nơi nuôi ngựa nhưng Vệ Nguyên quân không chấp thuận, vì vậy An Ly vương muốn trả thù đứa con rể vong ơn bội nghĩa này. Lại có người nói con rắn là do mẹ của Quân Giác thả ra. Nguyên nhân là vì bà này phát hiện thấy Hoàng thượng ngày càng thân thiết với công tử Nộ Khiên và xa lánh Thái tử Quân Giác, bà lo một ngày nào đó Hoàng thượng sẽ phế truất Quân Giác, lập Nộ Khiên làm Thái tử. Nhưng rốt cuộc con rắn kia do ai thả ra thì không ai rõ cả. Trong cung của Vệ Nguyên quân luôn được bảo vệ chặt chẽ còn ngoài cung khắp đường cùng ngõ hẻm luôn có đội quân đi tuần tra bất kể ngày đêm. Khi nào tìm con rắn không chân này họ thường xoi mói vào những người dân qua lại.
Lã Bất Vi thấy khi mọi người bàn luận về chuyện này luôn lộ rõ vẻ ưu tư lo sợ trên gương mặt họ. Chàng mang theo hình ảnh con rắn kia về nhà. Phụ thân của Lã Bất Vi là Lã Hâm đỡ hành lý cho con, vui mừng kể với con trai rằng ông đã nhờ một người làm cho quan đại phu Vệ Hoành xin vị trí môn khách trong phủ. Lã Bất Vi biết quan đại phu Vệ Hoành là chỗ thân thích với vua Vệ Nguyên quân, nếu được Vệ Hoành mến mộ thì có thể đi cùng với vị đại phu này vào triều yết kiến, nắm bắt cơ hội này để trổ tài văn thao võ lược, khiến vua nể phục ắt sẽ được phong hầu phong tướng. Lã Bất Vi đắc ý kể với cha về những điều biết được qua mười năm học tập vất vả và những ý tưởng lớn lao trong tương lai. Lã Hâm liên tục gật đầu say sưa lắng nghe từng lời nói của đứa con trai độc nhất. Sau đó chàng kể cho cha nghe về chuyện con rắn, người cha nói rắn không cắn đến nhà ta thì quan tâm đến nó làm gi, chi bằng ta dắt con đến bái kiến đại phu Vệ Hoành.
Lã Bất Vi mãi mãi không quên cảnh tượng huy hoàng khi lần đầu tiên đến bái kiến Vệ Hoành. Khi cha dắt chàng vào trong phòng khách của nhà đại phu, Vệ Hoành với mũ cao đai rộng đang cùng với các môn khách bàn luận chuyện kim cổ. Những chiến đàn sắt được bầy khắp phòng và tiếng của Vệ Hoành cao đàm khoát luận khiến cho chàng có cảm giác bị kìm nén. Sau khi Vệ Hoành ca ngợi một hồi về tài năng của chàng, liền tiện thể hỏi luôn một số điển cố về “Thi Kinh”, “Quốc Ngữ”, chàng đều đối đáp trôi chảy. Vệ Hoành vui vẻ cười nói: nhân tài này có thể lập nên cơ đồ. Lã Bất Vi thấy cha và các vị môn khách đều cùng cười với đại phu.
Khi cha của Lã Bất Vi cáo từ ra về, Vệ Hoành nói: lát nữa ta sẽ vào triều yết kiến Hoàng thượng, để Bất Vi đi cùng ta. Lã Hâm vội khấu đầu tạ ơn.
Sau khi Lã Hâm đi khỏi, Vệ Hoành lại tiếp tục tán chuyện với các vị môn khách và sai chàng làm một số việc vặt như lấy sách, gọi người hầu. Điều này khiến cho chàng có cơ hội được đi lại trong phủ của đại phu, tận mắt chứng kiến sự xa hoa lãng phí của cuộc sống vương giả, làm cho chàng liên tưởng đến gia cảnh nghèo khó địa vị thấp, ít bổng lộc của cha chàng. Điều đó làm dịu đi cảm giác kiềm nén, nhưng lại như có đám mây phủ lên tâm tưởng của chàng. Khi được đối mặt với cung điện nguy nga tráng lệ của Hoàng thượng thì chàng vô cùng sửng sốt, chợt hiểu ra thế nào là sự tôn nghiêm và phú quý thực sự. Các vị hạ thần và môn khách khác đều theo vua Vệ Nguyên quân vào cung điện, vì Lã Bất Vi là người mới nên đứng đợi ở ngoài cửa cung. Chàng phóng tầm mắt qua cánh cửa rộng mở vào tới khu vườn của vương cung. Bên trong là những lầu son gác tía. Ở một khoảng đất trống rộng lớn có một đàn tuấn mã khoác những chiếc áo màu muôn tía nghìn hồng, thỉnh thoảng chúng lại phát ra tiếng phì phì trong mũi. Bên cạnh là những chiếc xe lọng vàng của Hoàng thượng, của các đại phu, ngoài ra còn có chiếc xe mui của người Hậu Kỳ xinh đẹp, tất cả đều được vẽ vời cầu kỳ. Hai bên cổng thành là những võ sĩ thân đeo kiếm đầy vẻ cương nghị. Các thái giám, cung nữ đi lại như mắc cửi, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng cười lanh lảnh của họ.
Lã Bất Vi than thở nói: “Đại trượng phu phải được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý như vậy”.
Bóng của mái hiên ngoài hành lang ngày càng dài ra, mặt trời đang lặn dần. Lã Bất Vi đã đợi khá lâu mới thấy Vệ Hoành và các môn khách chuyện trò vui vẻ từ cung đi ra.
Câu chuyện về rắn độc cắn chết công tử Nộ Khiên lam đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến thành Bộc Dương. Trong lúc lòng người đang lo lắng hoang mang thì có hai gia đình hàng xóm ở phía đông và tây trong một ngõ hẻm rất sâu của thành Bộc Dương lại đón nhận tin vui thật đáng chúc mừng. Cụ ông họ Tống trong gia tộc họ Tống ở phía đông làm lễ mừng thọ tròn bảy mươi tuổi. Công tử Bất Vi trong gia đình họ Lã ở phía tây hoàn thành nghiệp học hành, trở thành môn khách trong phủ của đại phu.
Cụ ông họ Tống là Tống Nhưng tước vị không cao, chỉ là quan bát phẩm nhưng vì có cửa hàng tơ lụa ở thành Bộc Dương làm ăn rất phát đạt nên kiến được nhiều tiền trở thành người giàu có nhất vùng. Tống Nhưng ở vào tuổi xưa nay hiếm lại giàu có nên cũng muốn tổ chức linh đình. Sáng sớm cổng nhà Tống gia đã chăng đèn kết hoa, giết lợn mổ dê và dựng một bàn tiệc lớn ở ngoài cửa, đoàn nhạc công chơi không biết mệt mỏi, làm cho cả ngõ nhỏ nhộn nhịp vui vẻ hẳn lên.
So với nhà họ Tống thì lễ chúc mừng của nhà họ Lã lại có phần trầm lặng và tẻ nhạt hơn. Lã Hâm lòng đầy hoan hỉ tổ chức vài mâm rượu cho con trai mình, mời bạn bè tụ tập để họ thấy con trai ông là một nhân tài đã trở thành môn khách trong phủ của quan đại phu.
Lã Bất Vi đứng trước phòng khách lịch sự lễ phép nghênh đón các vị khách đến. Đúng hẹn, bạn bè người thân đã đông đủ, chỉ thiếu mỗi sư phụ Bá Hạ. Chàng lưỡng lự một hồi bèn ra cửa đứng ngóng. Chàng vừa ra cửa thì thấy khách của gia đình họ Tống ra vào nhộn nhịp, xe ngựa kiệu võng choán hết cả ngõ; trước cửa nhà họ, người tấp nập khiến hoa cả mắt. Các vị khách đến chúc mừng nhà họ Tống đa phần là các quan thần có thân phận cao quý, các nho sĩ và thương gia, họ không đi xe thì cũng cưỡi ngựa. Sau khi họ vào nhà Tống gia thì đều để xe ngựa chặn kín trước cửa nhà họ Lã, khiến cho con đường to như vậy mà không còn một chỗ đứng. Bọn súc vật lại còn thi nhau bậy ra hết lượt này đến lượt khác, mùi tanh khai đậm đặc của nước giải bao bọc lấy chàng. Chàng nghĩ đến thầy Bá Hạ khi đến đây sẽ không khỏi khó chịu. Trong lú Lã Bất Vi đang trông ngóng thì một con ngựa lắc đầu vẫy đuôi, sau khi thả ra một nhát rắm rất kêu liền ị ra một đống phân lớn ngay trước bậc thềm của nhà chàng. Chàng vô cùng khó chịu liền với cây gậy ở trên mái nhà quật vào mông con ngựa. Con ngựa bị đánh bất ngờ giật mình hí lên một tiếng rồi lồng lên chạy như điên, phi qua con đường đầy xe và người. Người và ngựa trước cổng nhà họ Lã và họ Tống nháo nhác tạo thành một mớ hỗn độn. Con ngựa ban nãy hùng hổ vọt lên phía trước, phóng qua bàn tiệc và hội nhạc công. Lúc này gậy gỗ loạn xạ, người ngã ngựa đổ. Chiếc xe điểm vàng quý giá đặt trước cửa để dành riêng cho ông cụ Tống Nhưng ngồi bị đè bẹp rúm ró bởi chân ngựa và người.
Cảnh hỗn loạn này sớm được những người canh cổng của gia đình họ Tống nhìn thấy, họ vội vàng hốt hoảng vào báo với chủ nhân. Tống Nhưng đang cùng với bè bạn chén tạc chén thù, nghe người hầu bẩm báo vội nói với quản gia đây là do Lã Bất Vi cố tình gây ra, phải phạt tiền. Sau khi người quản gia hoa chân múa tay chỉ trích Lã Bất Vi một hồi liền đòi phạt năm trăm lượng vàng. Lã Bất Vi dùng lý để cãi, nói là đuổi súc vật trong phạm vi đất nhà mình không phải là phạm pháp nên không thể bị phạt. Trong lúc chàng và quản gia nhà họ Tống đang đỏ mặt tía tai tranh luận thì khách khứa của hai nhà cũng tham gia, ai cũng thi nhau nói phía mình có lý. Lã Bất Vi thấy đối phương ngang ngược vô lý nên yêu cầu chờ trưởng Châu Bá đại nhân đến giải quyết.
Người quản gia dương dương tự đắc nói, đây là do công tử nói đấy nhá. Châu Bá đại nhân đang cùng với đại gia của chúng tôi uống rượu trong nhà, mời công tử vào.
Lã Bất Vi phẫn nộ bừng bừng tiến vào phòng khách tìm Châu Bá đang say bí tỉ. Châu Bá mắt lờ đờ sau khi nghe xong lời biện bạch của Lã Bất Vi và quản gia liền phán quyết: “Phạt Lã Bất Vi 500 lượng vàng”.
Lã Bất Vi không phục lại tranh luận với Châu Bá đại nhân, lúc này Tống Nhưng đang ngồi bên bàn rượu đứng lên hòa giải nói: “Lã Bất Vi gia đình nghèo hèn, quả thật là không có số tiền lớn như vậy, hãy để Bất Vi đến cửa hàng tơ lụa của ta làm một tháng coi như là hòa”.
Châu Bá lè nhè nói: “Tội nặng phạt nhẹ, thật lương thiện tốt bụng”.
Lã Bất Vi đang tủi thân vì oan ức thì thấy một gương mặt thanh tú ngồi ở mâm rượu khác. Chàng nhận ra đó là Vệ Hoành liền chạy lại nhờ vị hoàng thân quốc thích này lấy lại công bằng cho mình. Vệ Hoành đã ngà ngà say, thờ ơ nói: “Phán quyết của Châu Bá rất sáng suốt không thể thay đổi”.
Chàng đứng ngây ra ở đó không hiểu chuyện gì đang xảy ra, hôm qua còn khen mình là nhân tài có thể dựng nên cơ đồ mà sao hôm nay lại lạnh nhạt thờ ơ như vậy.
Cha của Lã Bất Vi sau khi biết môi chuyện thấy việc đi làm công một tháng vẫn hơn là nộp năm trăm lượng vàng. Nếu nộp năm trăm lượng vàng thì đem đầu của bốn người trong gia đình cân lên cũng không đủ, chi bằng đi làm công một tháng. Lã Hâm còn nói với con, gia đình còn phải tiêu một khoản lớn: vua Vệ Nguyên quân hạ chỉ Thiên thần sắp đến thàng Bộc Dương nên mỗi nhà phải xây Thần đường để đón tiếp.
Lã Bất Vi cũng đành bó tay không còn cách nào khác.
Cửa hàng tơ lụa của Tống Nhưng nằm ở đoạn đường phồn hoa náo nhiệt nhất của thành Bộc Dương, mặt ngoài của cửa hàng trải dài và tráng lệ, tổng cộng có mười mấy người làm công cho cửa hàng, họ luôn luôn bận bịu.
Lã Bất Vi làm ở cửa hàng tơ lụa là chuyện bất ngờ nên có phần lúng túng, đo vải tính sổ không thạo, có lúc còn rối loạn lung tung. May mà trong cửa hàng có một người tên là Vương Khuê rất thông minh lanh lợi thạo về buôn bán đã giúp đỡ chàng không ít. Đến đây mua vải đa số là phụ nữ đầy mùi son phấn, chàng không dám nhìn thẳng vào họ.
Đột nhiên ở một nơi cách cửa hàng không xa có một đám đông tụ tập hò hét rất to. Lã Bất Vi dõi nhìn thì thấy tại nơi buôn bán súc vật và nô lệ có một người con gái bị cắm cọc tiêu bằng cỏ đang bị mọi người xét nét bình phẩm từ đầu đến chân. Vương Khuê và một vài người làm công khác dừng việc bán hàng, thích thú hòa vào đám đông. Hồi lâu mới quay lại, họ hết lời khen ngợi: “Tuyệt sắc giai nhân, thật là nghiêng nước nghiêng thành”, bảo Lã Bất Vi ra xem để mở rộng tầm mắt. Chàng thấy một người nô lệ là phụ nữ chẳng có gì đáng xem. Vương Khuê lại tiếp tục khen ngợi: “Nói về tướng mạo thì tất cả phụ nữ trong thành Bộc Dương này không ai sánh bằng. Chỉ mỗi tội thời vận không tốt, số phận long đong phải bán thân làm nô lệ. Không biết sẽ bọ ai mua về sử dụng và làm nhục đây”.
Nghe vậy, chàng rời khỏi cửa hàng tiến về phía đám đông. Trông thấy trước đầu gối của người nô lệ nữ dựng một tấm thẻ tre viết dòng chữ: “Giá của người nô lệ tuyệt hảo này là mười lạng vàng”. Chàng thấy người con gái đó dáng vẻ duyên dáng nhưng mặt mũi bẩn thỉu tóc tai bù xù, giữa hai lông mày có một cái chấm màu đỏ to bằng đầu ngón tay. Mọi người đều bảo cô ta xinh đẹp, xinh đẹp ở điểm nào cơ chứ. Chàng ngắm kỹ, qua lớp bụi bẩn quả thật vẫn giấu một gương mặt thanh tú, người con gái này quả là có một khuôn mặt rất đẹp. Chàng ngắm đi ngắm lại bỗng dưng nảy sinh tâm tình thương hoa tiếc ngọc, thở vắn than dài: “Con gái nhà ai lại rơi vào cảnh đáng thương như vậy”.
Khi Lã Bất Vi quay về cửa hàng, Vương Khuê hỉ hả cười hỏi: “Thế nào?”. Chàng trả lời: “Rất tuyệt! Rất tuyệt!”. Những người làm công trêu đùa nói: “Lã Bất Vi mua cô gái này về... làm vợ hay thiếp đi”. Chàng châm biếm lại: “Để làm vợ hay thiếp các anh thì có”.
Không biết tự lúc nào đoàn người tụ tập lúc nãy đã tản hết. Lã Bất Vi lại chợt nghĩ tới cô gái nô lệ khi nhìn thấy một gương mặt thiếu nữ được trang điểm rực rỡ, không biết giờ đây cô ta đang bị rao bán nơi góc phố nào, hoặc giả đã rơi vào tay bậc nho tướng giàu sang nào...
Lã Bất Vi đóng chặt cửa hiệu, kết thúc một ngày buôn bán bình thường như bao ngày khác, rảo bước về nhà với một tâm trạng phấn chấn. Con đường nhấp nhô sáng rực trong ánh hồng của buổi chiều tà. Những làn khói tỏa lên từ mái bếp của các ngôi nhà loang ra, quyện lấy bầu không gian đang dần thẫm màu, lơ lửng như mơ ảo. Trước cửa nhiều nhà đã chất đầy gỗ, gạch, có nhà đang hối hả xếp gỗ, vọng lại những tiếng lách cách vui tai. Lã Bất Vi biết, mọi người đều tuân theo chiếu lệnh của Vệ Nguyên quân, chuẩn bị xây điện rước thần.
Về tới nhà, qua bờ rào nhìn vào phía trong, Lã Bất Vi cũng thấy ngổn ngang những cột gỗ, hai bên là hàng đống gạch. Cha Lã Bất Vi cho hay, ngày mai nhà chàng sẽ động thổ xây điện rước thần. Chàng để ý, từ phía Tây Viện Tống Gia cũng đang vọng lại tiếng cưa gỗ hối hả, và trong ánh sáng chiều tà nhập nhoạng lờ mờ những dáng người đang kéo gỗ dựng cột.
Ăn cơm xong thì trờ đã tối, mặc dù ngày mai đã là ngày động thổ, cha chàng vẫn cần phải nghỉ ngơi sau một ngày đã quá bận rộn mệt mỏi, nên Lã Bất Vi một mình cứ ra ra vào vào để tính toán trước công việc. Khi đi ngang qua một đống gỗ, chợt nhìn thấy một bụi cỏ đang nằm ở giữa trông rất vướng mắt, sợ sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng của ngày mai, Lã Bất Vi liền cúi xuống giật bụi cỏ lên. Đúng lúc đó, tiếng “ai a” của một cô gái khiến chàng giật thót người. Lã Bất Vi nhìn thấy lờ mờ hình dáng của một người con gái đứng bật dậy, sau đó, vẫn cái hình dáng lờ mờ ấy lại quỳ thụp xuống, giọng khản đặc cầu xin: “Công tử, xin hãy cứu tôi!”. Không biết là bởi lạnh hay đói mà cái hình hài cứ không ngớt run lên bần bật.
Lã Bất Vi cầm cây đèn dầu ra, cái đầu tiên đập vào mắt chàng là vết dấu đỏ rõ nét giữa hai hàng lông mày của cô gái. Tim chàng thót lại: đây chẳng phải là cô gái nô lệ bị buộc cỏ đem bán sáng nay sao? Tại sao cô ta lại đến đây lúc nửa đêm?
Chàng đưa cô gái vào trong nhà kho chứa lương thực và đồ đạc linh tinh hỏi han sự tình. Cô gái nước mắt lã chã kể cho Lã Bất Vi hay, gia đình cô vốn là bồi thần của đại phu nước Tấn, cha cô là Hoàng Phủ Hồ, cô là Hoàng Phủ Kiều và một người anh trai là Hoàng Phủ Thượng Nghĩa. Mùa hè năm ngoái, Vệ Nguyên quân dẫn mười vạn đại quân tiến công nước Tấn, khi đi qua nhà cô đã giết chết cha cô và bắt cô cùng người anh trai. Nửa đường anh trai cô tháo chạy được, còn cô bị đem về, tặng cho một vị tướng quân lập nhiều công trạng để làm nô lệ. Người này rất ghét kẻ nô lệ suốt ngày khóc lóc vì cảnh nhà tan cửa nát nên ngày hôm sau đã đem bán cô lấy mười dật vàng cho một thương nhân giàu có trong thành tên là Phàn Bình. Cha của Phàn Bình mắc bạo bệnh mà chết, muốn được mai táng cùng hai người con trai và hai người con gái, Hoàng Phủ Kiều chính là một trong hai người con gái được mua về để đem chôn cùng. Hoàng Phủ Kiều không cam tâm vùi chôn sinh mạng tuổi trẻ của mình vĩnh viễn hầu hạ cái xác khô của kẻ có tiền kia, và thế là nhân lúc tên gia đinh giữ cô đi vệ sinh, cô đã bỏ trốn ra ngoài.
Lã Bất Vi an ủi Hoàng Phủ Kiều đôi câu, đoạn lẻn vào nhà mang một bát cơm ra, để Hoàng Phủ Kiều ăn một chút cho ấm bụng rồi mới bàn cách giải cứu cô ra sao. Chàng thấy cô gái ăn ngấu nghiến. Thân hình mảnh mai của cô dưới ánh đèn dầu, in lên trên bức tường. Hoàng Phủ Kiều có lẽ bị nhịn đói rất lâu rồi nên chả mấy chốc, thức ăn đã hết sạch.
Cô gái ngước đôi mắt lấp lánh, ánh mắt ấm áp khẽ nói: “Xin hỏi, vị đại ca tên họ là gì?”
Lã Bất Vi nói tên mình cho Hoàng Phủ Kiều.
Hoàng Phủ Kiều liền đứng dậy cáo từ: “Ơn sâu của Lã công tử, kẻ hèn mọn này sẽ mãi mãi khắc lòng tạc dạ, sau này có dịp, nhất định sẽ báo đáp!”
Lã Bất Vi hỏi: “Hoàng Phủ cô nương định đi đâu bây giờ?”
Hoàng Phủ Kiều đáp: “Tôi không thể làm phiền gây liên luỵ đến công tử nữa. Tôi phải đi tìm anh trai của tôi, hai anh em gặp nhau sẽ báo thù cho cha tôi!”
Lã Bất Vi nói: “Sau khi cô bỏ trốn, nhà Phàn Bình quyết không bỏ qua đâu, nếu chúng không báo quan dán cáo thị thì cũng sẽ sai người đi bắt. Cô một thân con gái yếu ớt thế này, lại đang là kẻ mang tội, e là còn chưa tìm được anh trai thì đã bị bắt rồi!”
Hoàng Phủ Kiều đáp: “Tôi đã sa vào bước đường cùng rồi, cũng đành phải vậy!”
Lã Bất Vi nói: “Cứ thử nghĩ kỹ xem, không lẽ hết cách rồi sao?”
Hoàng Phủ Kiều nói: “Bây giờ chỉ còn cách lấy mười dật vàng đến nhà họ Phan chuộc tôi thì mới yên chuyện, đổi được tự do cho tôi. Nhưng mà...”
Lã Bất Vi nói: “Hoàng Phủ cô nương, cô cứ tạm lánh trong nhà kho này đã, đợi tôi suy nghĩ thêm, ngày mai ta bàn tiếp”.
Hoàng Phủ Kiều cảm động dập đầu cảm tạ rồi nép mình nơi góc tường đợi ngày mai.
Ánh trăng sáng soi tỏ Lã Bất Vi đang trằn trọc trên giường. Cứ nghĩ đến cô gái Hoàng Phủ Kiều đang nằm trong nhà kho kia, người đã khiến chàng hành động như một bậc anh hùng trượng nghĩa sẵn sàng ra tay cứu giúp kẻ gặp nguy khốn là lòng chàng lại dậy lên một cảm giác tự hào. Chàng thậm chí còn tưởng tượng ra viễn cảnh tươi đẹp sau khi Hoàng Phủ Kiều đã được chàng cứu, khi ấy có thể nàng sẽ được tự do không một chút sợ sệt đi khắp bốn phương để tìm anh trai mình, cũng có thể sẽ gửi gắm đời mình cho chính chàng để cùng chàng kết tóc xe tơ, mà cũng có thể nàng sẽ trở thành thê thiếp cho một bậc thương gia và mang vàng bạc tới trứơc cửa nhà chàng xin cảm tạ... Nhưng, khi cái viễn cảnh về một hạnh phúc xa xôi làm rung động lòng người ấy vỡ tan thì Lã Bất Vi lòng đầy lo lắng khi phải đối mặt trước câu hỏi tìm đâu cho được mười dật vàng. Chính chàng cũng biết, ngoài số tiền dùng để xây điện rước thần ra thì nhà chàng gần như không còn tiền nữa. Cha chàng ngày nào cũng run rẩy sờ soạng mười dật vàng giấu trong chiếc rương nhỏ, đây là món tiền dàng dụm cuối cùng phòng lúc ông cụ trăm tuổi. Cha chàng không thể hào phóng mở hầu bao chỉ để giải cứu một cô gái nô lệ cho chàng, thậm chí ông cụ hẳn còn cho rằng hành động của chàng là to gan và hoang đường. Lã Bất Vi nghĩ đến đôi ba người họ hàng nghèo của mình, nghĩ đến sư phụ Bá Hạ nghĩ đến đôi ba người anh em làm trong cửa hàng tơ lụa mà chàng mới quen...
Mặt trời đỏ ối nhô lên từ phương đông, tiếng rìu đẽo gỗ từ nhà họ Tống bên cạnh vang lên nghe tựa một bản nhạc. Lã Bất Vi vội vã bật dậy đến nhà kho, Hoàng Phủ Kiều vẫn đang ngủ say sưa. Chàng lấy vài manh áo khẽ đắp lên người cô.
Lã Bất Vi trầm tư nghĩ ngợi hồi lâu trong nhà kho. Chàng không hay biết giờ đây vừng đông nhô cao đang tỏa những tia nắng chói chang và phủ sáng lấp lánh lên số phận của Hoàng Phủ Kiều...
Lã Bất Vi là người đầu tiên đến cửa hiệu tơ lụa, chàng vừa vẩy nước quét nhà vừa quan sát mọi người đang lục đục kéo đến. Lã Bất Vi để mắt tìm Vương Khuê. Mới gặp chàng đã có cảm giác đây là con người có thể gửi gắm tâm sự được. Đợi Vương Khuê đến, chàng sẽ đem chuyện mượn tiền nói với anh ta xem sao. Rất nhiều người đã tụ tập trò chuyện trước quầy mà vẫn chưa thấy bóng Vương Khuê. Lã Bất Vi đang nghĩ không biết có nên đợi nữa không hay đi tìm chỗ khác. Đúng lúc chàng đang do dự, chợt một bà lão trông rất chậm chạp cầm theo một mảnh gấm màu nho tới nói: “Hôm qua tôi mua mười thước gấm ở đây, về nhà thử đo lại trước khi đem may áo thì thấy thiếu một thước, mong anh bù lại cho tôi”. Lã Bất Vi hỏi bà lão rằng bà mua gấm do ai bán, bà lão nhìn quanh rồi nói: “Là cái anh đứng sát anh đấy, mắt to, trông rất nhanh nhẹn. Sao hôm nay không thấy anh ta nhỉ?”
Lã Bất Vi biết đó là Vương Khuê. Chàng lại nói: “Quả thực có việc này sao?”
Bà lão thề thốt nói: “Tôi ngần này tuổi đầu mà lại có thể đi lừa gạt vì một thước gấm hay sao?”
Lã Bất Vi nghĩ, thấy lời bà lão cũng có lý, lại nhìn đôi mắt hiền hậu của bà, quả không giống với loại người đi lừa bịp. Chàng liền giữ lại mảnh gấm màu nho trong tay bà lão rồi đo lại đầy đủ mười thước mới đưa cho bà.
Bà lão vừa đi thì Vương Khuê miệng thở hổn hển chạy đến. Lã Bất Vi kéo anh ta qua một bên, hạ giọng hỏi: “Sao huynh lại bán gấm thiếu cho người ta?”
Vương Khuê giật thót người, hỏi lại: “Sao đệ biết?”
Lã Bất Vi lại nói: “Nói thật đi, có phải có một bà lão mua mười thước gấm màu nho và huynh đã đo thiếu một thước không?”
Vương Khuê bất đắc dĩ phải nhận: “Đúng vậy?”
Lã Bất Vi đưa lại mảnh gấm đã gấp lại cho Vương Khuê xem, Vương Khuê vội hỏi với giọng hỏi lo lắng: “Thế đệ đã nói cho ông chủ chưa?”
Lã Bất Vi lắc đầu. Vương Khuê vỗ vai chàng nói thế mới là tình nghĩa huynh đệ, mời chàng buổi trưa đi uống rượu. Lã Bất Vi quả thực đang muốn nói với Vương Khuê mượn tạm mười dật vàng, nhưng chàng lại nghĩ, đem chuyện này ra nói khi mình vừa bắt “thóp” được bạn thì cứ như là chàng lợi dụng bạn vậy. Lã Bất Vi im lặng hồi lâu, đắn đo không biết phải mở miệng ra sao với Vương Khuê. Cứ mấy lần định nói, rồi lại không thốt nên lời. Sau cùng, chàng quyết định đi vay tiền ở chỗ khác.
Người làm ở hiệu tơ lụa luân phiên nhau đi ăn cơm trưa. Lã Bất Vi đang định đi ra thì Vương Khuê kéo chàng bắt đi uống rượu, Lã Bất Vi nói mình có việc phải đi. Vương Khuê nói uống với nhau đôi ba chén đâu mất nhiều thời gian, uống xong Lã Bất Vi đi cũng chưa muộn.
Lã Bất Vi lần đầu tiên được đến tiệm ăn ngào ngạt hương vị các món ăn như thế này. Chàng không hiểu sao cứ có cảm giác hơi xa hoa. Vương Khuê khoản đãi chàng rất thịnh tình. Anh ta ra sức nài Lã Bất Vi uống thoải mái, còn nói đây là loại rượu ngon hảo hạng. Vương Khuê uống mặt đỏ tía tai, tâm sự rất cởi mở với Lã Bất Vi rằng, đã là buôn bán thì phải có thủ đoạn để kiếm lợi cho mình. Bán lụa mỗi lần chỉ cần đo thiếu đôi ba tấc thì dần dần cũng được một món lớn. Lã Bất Viừa nghe vừa thầm nghĩ: “Quả đúng như người ta vẫn nói, vi thương bất gian bất vi thương”.
Vương Khuê thao thao một mạch về kinh nghiệm buôn bán của anh ta rồi hỏi Lã Bất Vi hôm nay dường như có tâm sự gì đang lo lắng. Lã Bất Vi thở dài, Vương Khuê sa sầm nét mặt nói: “Lã Bất Vi, huynh đã coi đệ như bạn tâm giao, có chuyện gì nếu đệ không cho huynh biết, thì chứng tỏ đệ không thật lòng, đệ mau nói ra đi, nếu huynh không ra tay giúp đỡ thì huynh không phải kẻ trượng nghĩa”. Lã Bất Vi đành kể lại cho Vương Khuê chuyện chàng muốn cứu Hoàng Phủ Kiều nhưng đang lực bất tòng tâm.
Vương Khuê nghe xong, chân thành nói: “Ai da, đệ đã mắc vào chuyện hồng nhan, việc này huynh có thể giúp”.
Vương Khuê nói đoạn rảo bước về nhà mang đến cho mười dật vàng, nói với Lã Bất Vi: “Khi nào có trả hết cũng được, nếu không có thì trả dần ít một, hà tất phải bận tâm!”
Lã Bất Vi lao như bay về nhà, chạy thẳng đến nhà kho, định gọi Hoàng Phủ Kiều cùng chàng đến nhà Phàn Bình giao tiền chuộc thân. Nhưng chàng tìm khắp nơi trong nhà kho mà không thấy bóng Hoàng Phủ Kiều. Lã Bất Vi biết chuyện này không tiện dò hỏi cha chàng nên quyết định một mình mang tiền chuộc đến phủ họ Phàn, sau đó sẽ tìm Hoàng Phủ Kiều.
Phàn phủ chìm trong không khí tang thương, Lã Bất Vi gặp Phàn Bình nói: “Có một nô lệ tên là Hoàng Phủ Kiều bỏ trốn, nhờ tôi đem mười dật vàng chuộc thân trao cho đại nhân”.
Phàn Bình vốn đang sai người đi tìm Hoàng Phủ Kiều mà chưa thấy tăm hơi gì, nay nghe người thay cô ta mang tiền chuộc đến, nghĩ rằng mua đâu chả được một nô lệ khác đem mai táng cùng cha nên nhận lấy mườu dật vàng của Lã Bất Vi và trao lại cho chàng tờ khế ước bán thân của Hoàng Phủ Kiều viết trên tấm trúc.
Lã Bất Vi trở về nhà lúc trời nhập nhoạng tối, cứ nhìn đăm đăm vào cánh cửa nhà kho trầm tư suy nghĩ: “Hoàng Phủ Kiều có thể đi đâu được cơ chứ?”
Cha Lã Bất Vi đang chỉ bảo đám thợ xây điện rước thần, thấy Lã Bất Vi cứ thẫn thờ nhìn vào nhà kho liền gọi chàng lại dặn dò: “Bất Vi, sau này nhà ta sẽ có các vị thần bảo vệ. Sáng nay, cha đã phát hiện một kẻ nô lệ bỏ trốn trong nhà kho, cha đã đuổi đi rồi!”
Lã Bất Vi vờ như không để ý lơ đãng hỏi lại: “Không biết cô ta đi đâu nhỉ?”
Lã Hâm nói: “Ai mà biết được”.
Lúc trưa nay khi về đến nhà, Lã Bất Vi để ý thấy trước cửa nhà họ Tống có mấy cỗ xe trông rất sang trọng với những con tuấn mã phủ đệm rực rỡ, lại còn có cả một đội kỵ binh oai vệ. Chàng dò hỏi mới biết, thì ra điện rước thần của nhà họ Tống xây rất đẹp, có người đã bẩm báo với Vệ Nguyên quân, Vệ Nguyên quân rất khen ngợi, họm nay ngự giá đến Tống gia ngự lãm ban thưởng.
Lúc này Lã Bất Vi mới để ý, khoảng đất phía Tây Bắc Tống gia đã được dựng một tòa lầu rường cột chạm trổ sơn son thiếp vàng cao vút tới tận trời xanh.
Lã Bất Vi chưa từng được thấy long nhan Vệ Nguyên quân nên đứng nấp sau cánh cửa nhà chờ đợi. Một lát sau, chàng nghe thấy tiếng nhạc vang lên rộn rã, rồi tiếng hô “vạn tuế” rền vang. Lã Bất Vi nghĩ: “Có lẽ Quốc vương chuẩn bị hồi cung”. Chàng liền thò đầu ra nhìn về phía cổng nhà Tống gia. Ngay lúc ấy, chàng chỉ kịp nhìn thấy một người chừng tuổi trung niên đầu đội vương miện đính chuỗi ngọc, tư thế uy phong bước ra.
Lã Bất Vi đoán chừng, đây hẳn là Vệ Nguyên quân.
Chuỗi ngọc đính trên vương miện khiến Lã Bất Vi kông nhìn rõ mặt Vệ Nguyên quân. Mũ mạo rữc rỡ của quân vương được gọi là “diên”, vốn là chiếc mũ hình ống tròn được cách điệu. “Diên” trước cao sau thấp, hơi nghiêng về phía trước thể hiện cái tư thế của bậc quân vương đứng từ trên cao mà nhìn xuống thiên hạ. Bên ngoài quan diên là màu đen, bên trong màu hồng ngọc. Phần trước của diên được trang điểm bởi những dây tua mảnh màu sắc sặc sỡ được đính bởi những viên ngọc trân châu lóng lánh, gọi là “chuỗi ngọc”. Thiên tử có mười hai chuỗi ngọc, mỗi chuỗi có mười hai viên ngọc, tổng cộng là một trăm bốn bốn viên. Đây là mũ mạo từ thời Châu Thiên tử quen đội. Rồi lễ nhạc bị băng hoại nhiều nhưng các bậc quân vương vẫn cứ mô phỏng kiểu mũ ấy, có khác chăng chỉ là số lượng những viên ngọc. Những viên ngọc rực rỡ sắc màu buông phía trước diên ấy không chỉ là lối phục sức của bậc hào hoa mà còn thể hiện cho sắc thái thần bí và vẻ tôn nghiêm của bậc quân vương. Khi tiếp kiến các hạ thần, Quốc vương có thể quan sát thần thái của họ qua những khe hở giữa các chuỗi ngọc nhưng kẻ hạ thần thì không thể nhìn rõ thái độ của nhà vua.
Khi chiếc mũ miện đính các chuỗi ngọc lúc lắc của Vệ Nguyên quân cùng đoàn vệ binh rầm rộ đã khuất nơi cuối phố, Lã Bất Vi run lên thầm nghĩ: “Tiền bạc có thể đem lại cho con người ta thật nhiều thứ!”
Chẳng mấy chốc một tháng vui vẻ ở cửa hiện tơ lụa đã trôi qua, Lã Bất Vi lại phải quay trở về chỗ đại phu Vệ Hoành tiếp tục làm môn khách. Chàng hoàn toàn không ngờ rằng, chàng bị cấm cửa. Môn dịch của Vệ Hoành lạnh lùng cho chàng hay, Vê đại phu nói chàng đã đánh ngựa trước cửa phủ Tống Kỳ làm kinh động phủ nội, hành vi thất lễ, nếu chàng tiếp tục làm môn khách ở đây sẽ làm tổn hại đến danh tiếng của Vệ đại phu, nay chàng hãy tìm nơi chốn khác.
Lã Bất Vi đâu ngờ cảnh ngộ u ám này của đời mình, lảo đảo đi về nhà. Cái tin này khiến Lã Hâm vô cùng đau đớn, nước mắt cứ thế giàn giụa trên gương mặt in hằn bao sóng gió cuộc đời của ông.
Lã Bất Vi an ủi cha: “Cha à, đừng đau lòng nữa, trời đã cho con sinh mạng ắt chẳng bạc đãi con. Vệ Hoành từ chúng ta nhưng đâu thể tuyệt đường của cha con ta. Muốn làm bồi thần môn khách mong hưởng bổng lộc chứ không vì tiền bạc ở cái thành Hàm Dương rộng lớn này thì ông trời quyết không thể tuyệt đường của con người ta!”
Ánh trăng sáng và bóng cây rợp bao trùm đình viện nơi Lã Bất Vi đang ngồi suy ngẫm day dứt. Những sự việc xảy ra trong một tháng nay mang lại cho chàng biết bao cảm xúc. Đánh ngựa làm kinh động ư, tại sao không phạt chàng tiền công một tháng thôi? Hay là tại bởi vì Tống gia có tiền, có thế, kết giao với các bậc quyền quý, đến Vệ Hoành đại phu và Châu Bác đều đến Tống gia ăn cơm chúc thọ; Vệ Nguyên quân hà tất lại ngự giá đến Tống gia, làm rạng danh tổ tiên, được hưởng lộc triều đình, đây chẳng phải là vì Tống gia có tiền nên mới xây điện rước thần mái cao thân lượn, khắc phượng chạm rồng, sơn dầu dát bạc đấy sao! Lã gia nhà ta nếu lưng dắt vạn quan thì cũng có thể xâu được điện rước thần mang màu sắc hoàng gia như thế, Vệ Nguyên quân khi ấy lại cũng sẽ chẳng ngự giá đến Lã gia sao! Hoàng Phủ Kiều đi về đâu không rõ, sao chẳng thấy chút tăm hơi? Hay nàng vẫn mang nỗi xấu hổ trong lòng, nếu ta cũng giàu có như Tống gia thì đừng nói là mười dật vàng, đến một trăm dật vàng cũng dễ như trở bàn tay, cũng sẽ chẳng đến nỗi bỏ lỡ thời cơ mà dễ dàng kết giao được với Hoàng Phủ Kiều! Tiền bạc có thể làm cho con người ta được tôn quý, hiển vinh, tiền bạc có thể mua được tước vị, tiếng tăm, tiền bạc có thể trải ra con đường tiến thân đầy những gấm hoa dẫu cho con người ta đang ở trong cũng lầy đen tối... Người khác, trước là mưu cầu quan chức, tước vị, sau dựa vào quan tước để tranh điền ấp, bổng lộc, rồi tích tụ tiền của, giàu có vang danh. Ta lại muốn đi một con đường ngược lại, làm kẻ buôn bán, tích luỹ bạc tiền, sau đó mới tranh quan đoạt tước, phong hầu bái tướng.
Hoài bão về tiền đồ mà chàng tự vẽ nên khiến cho Lã Bất Vi háo hức đến không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, Lã Bất Vi điềm tĩnh nói với cha rằng hôm nay chàng rỗi rãi nên muốn đi thăm sư phụ Bá Hạ. Chàng muốn tạm thời không để người cha già đang rất khổ tâm lại thêm một lần nữa phải nhọc lòng suy nghĩ bởi những toan tính được mất chỉ vì những ý tưởng còn rất mơ hồ, mung lung của chàng. Lắng nghe một câu từ miệng người quân tử hơn cả đọc sách cả mười năm. Lã Bất Vi vừa đi vừa phỏng đoán không biết Bá Hạ tiên sinh sẽ tỏ thái độ ra sao trước sự lựa chọn của chàng.
Đã một tháng Lã Bất Vi mới lại đặt chân đến chốn này, gia cảnh Bá Hạ tiên sinh vẫn vậy, nhà nhỏ dậu thưa, bụi gai che cửa sổ. Tất cả cảnh vật nơi đây đều mang lại cho Lã Bất Vi một cảm giác rất đỗi thân quen. Thấy chàng đến, Bá Hạ mừng rỡ ra đón. Rồi, một bình trà đặc, hai thầy trò ngồi trên đất, Lã Bất Vi rủ rỉ tâm sự với thầy về ý tưởng từ bỏ con đường mưu cầu quan tước để dấn thân vào chốn buôn bán, thương nhân.
Bá Hạ chăm chú nghe, nghe xong, ông trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Bất Vi, ta rất khâm phục cốt cách và hoài bão biết nhìn xa trông rộng của con”.
Lã Bất Vi vội vàng đứng dậy, khẽ cúi người lo lắng nói: “Thầy nói vậy, con quả xấu hổ vô cùng”.
Bá Hạ vẩy tay ra hiệu cho Lã Bất Vi ngồi xuống, rồi cất giọng chân tình nói: “Bất Vi, đừng vì lễ nghi khách khí thầy trò. Suy nghĩ của con quả thực là cờ cao một nước hơn người, hợp thời thuận thế. Con cũng biết Khổng Khâu tiên sinh vốn là quan đại thần nước Lỗ từ thời hơn hai trăm năm về trước, trước đây ta vô cùng bái phục văn chương đạo đức của ông ta. Đặc biệt là khi nghiền ngẫm tập “Luận ngữ”, mỗi câu mỗi chữ trong đó đều soi rạng thứ ánh sáng hiền triết, đều là những danh ngôn chí lý. Nhưng bỗng gần đây, khi đọc những trước tác của Khổng tiên sinh, ngẫm nghĩ suy tư thì tình cảm sùng bái của ta dành cho ông ấy đã bị dao động, nói cách khác, ta nhận thấy, không phải tất cả những lời của Khổng tiên sinh đều là những chân lý bất di bất dịch. Ví như, Khổng Tử nói, bậc quân tử trượng nghĩa còn kẻ tiểu nhân hám lợi; bậc quân tử lo việc đạo nghĩa chứ không vì bần hàn mà bận tâm. Ta không cho là như vậy. Cớ sao có thể nói mưu cầu lợi ích vật chất, tránh cảnh cơ cực bần cùng tất thảy đều là bụng dạ, suy nghĩ của kẻ tiểu nhân? Không có bạc tiền, nghèo hèn khốn khó mà nói đến đạo, đến nghĩa há chẳng phải viễn vông sao? Ta có vừa được nghe một câu nói của Quản Trọng, vốn từng làm đến chức Thượng khanh cho Tề Hoàn công, rằng: “Gạo đầy kho mới hiểu lễ tiết, áo ấm thân mới thấu nhục vinh”. Đó quả là một lời răn dạy sâu sắc mà mới mẻ, người dân chỉ có thể hiểu được lễ tiết là gì khi họ đã được ăn no, chỉ có thể biết cái gì là vinh, cái gì là nhục khi họ đã được mặc ấm. Cho nên quân tử phong lưu thì dễ lòng hành đức, tiểu nhân no đủ thì dốc sức dốc công. Bậc quân tử khi đã rương cao hòm đầy thì có thể thi ân hành đức, còn kẻ bình dân khi đã có chút của dư thừa thì có thể thêm sức cần lao. Cũng giống như nơi nước sâu mới có cá lội, chốn núi cao mới có thú về, có giàu sang mới tính được chuyện nhân nghĩa. Kẻ giàu có tiền có thế, dang tiếng càng bay xa, mất tiền mất thế, môn khách cũng sẽ đều quay gót bỏ đi, bởi vậy đã có người nói rằng: thiên hạ nô nức, khi còn lợi, thiên hạ quạnh hiu, lợi chẳng còn. Ôi, bậc quân vương nghìn cỗ xe, kẻ chư hầu vạn mái nhà, bậc khanh tướng trăm phòng thất chẳng vẫn sợ bần hàn sao, trách chi được kẻ thất phu với đôi gian nhà chật?”
Từng lời của Bá Hạ thâm thuý diệu kỳ, khiến Lã Bất Vi mở mắt bao điều, chàng vội nói: “Những lời rao giảng của tiên sinh khiến cho đệ tử thấy được những việc chưa từng thấy, nghe được những điều chưa từng nghe. Xin tiên sinh chậm rãi từng lời để đệ tử chắp bút ghi lại, treo nơi đầu giường, bên cạnh án thư mà răn dạy bản thân”.
Bá Hạ cười lớn mà rằng: “Ấy, hà tất phải câu nệ như vậy. Hôm nay con tới, ta rất vui mừng; Con muốn thay đổi sự lựa chọn về sự nghiệp của mình, quả là điều trọng đại. Thế nên ta mới góp nhặt đôi câu, nhiều lời một chút, vị tất đã khúc chiết chỉn chu, có chăng chỉ là bàn bạc cùng con để con tham khảo”.
Lã Bất Vi vô cùng thành tâm nói: “Không, từng câu từng lời của tiên sinh đều là lời khuyên quý báu, khiến cho tâm tư mơ hồ của con như được rạng soi”.
Bá Hạ nói tiếp: “Nếu quả thực như vậy, thì thầy sẽ lại có đôi lời dông dài cùng con. Tử Hạ là một trong những đệ tử xuất sắc nhất trong số bảy hai đệ tử của Khổng Tử. Tử Hạ có một học trò rất nổi tiếng, tên là Lý Khôi.
Ngụy vương Ngụy Văn Hầu chiêu mộ nhân tài, đã phong cho Lý Khôi làm Tể tướng. Trong thời gian chấp chính, Lý Khôi đã thực thi biện pháp tấc đất tấc vàng, phá bỏ ranh giới canh điền, phát triển điền canh thủy lợi, thậm chí còn tính toán giúp Ngụy Văn Hầu. Có một lần Lý Khôi đã tính toán cho Ngụy vương xem về một mảnh đất vuông vức rộng trăm lý, có chín vạn hecta ruộng, nếu trừ đi diện tích rừng núi, hà trạch, thành ấp, làng mạc thì thực tế diện tích canh tác chỉ còn được sáu vạn mẫu. Nếu lúc thuận thời, cần cù canh tác, mỗi mẫu tăng sản ba đấu thì sáu vạn hecta cũng tăng được một trăm tám mươi thạch. Ngụy vương vốn là bậc hiền minh rất nghe theo lời Lý Khôi, tiếp thu kế sách hoa màu: quốc cường dân phú của ông, Ngụy quốc nhờ vậy nhanh chóng cường thịnh. Hay chuyện Sở vương tin dùng Ngô Khởi, Tần Hiếu vương tín nhiệm Thương Ương, những nước chư hầu này đã thực thi biến pháp, tích của tụ tài, trở nên cường thịnh, từng bước hoàn thành bá nghiệp. Thời thay đổi, sách lược trị quốc của các bậc quân vương cũng phải thay đổi, thế gọi là thức thời vậy. Thời thượng cổ thiên vị đạo đức, trung cổ xem trọng trí mưu, cận kim phát huy vũ lực và đương thời trọng thị kinh tế. Thời nhà Thuấn, có bộ lạc Miêu không chịu khuất phục, tướng Vũ xin chinh phạt, Thuấn nói: làm vậy không được, chúng ta không dùng đức trị người mà nay lại dùng lực, há chẳng phải bất đạo hay sao? Suốt ba năm, vừa thuyết giáo, vừa răn đe, người Miêu mới khuất phục. Bất Vi, con xem, Thuấn phái quân tay cầm rìu cầm khiên nhưng lại cùng người Miêu ca hát, thế người Miêu mới khuất phục, thật diệu kỳ biết bao, dùng đạo cảm hóa lòng người thời ấy quả có sức mạnh vô biên. Đến thời cận đại thì sao? Có một lần, nước Tề toan tiến công nước Lỗ, Lỗ vương liền phái Tử Cống - một môn sinh xuất sắc của Khổng Tử đi thuyết giáo, hòng dùng đạo đức mà cảm hóa nước Tề bãi binh hòa hiếu. Tử Cống lý lẽ sắc sảo tới nước Tề diễn thuyết một hồi, người nước Tề nghe xong liền cười mà rằng: “Tử Cống tiên sinh, không phải tiên sinh nói lời vô lý, nhưng cái chúng ta cần là đất đai chứ không phải những lời căn vẻ bùi tai”. Và, quân đội nước Tề tấn công nước Lỗ, khuyếch trương biên giới đến cánh cửa thành nước Tề có năm trăm mét. Bất Vi, thử so sánh mà xem, thời thượng cổ, dùng đạo đức đi giáo hóa đã hàng phục được cả một bộ lạc, đến thời cận đại, lại dùng đạo đức đi thuyết giáo thì suýt dẫn đến họa diệt vong cho cả một quốc gia! Thời thế nay, chư hầu đua tiếng, mưu đồ thôn tính đối phương, độc dựng cơ hồ, theo ta, gốc rễ là kinh tế hưng thịnh, nước phú quân mạnh”.
Sau một hồi thao thao bất tuyệt, Bá Hạ ngừng lời, chậm rãi nhấp trà.
Lã Bất Vi nói: “Trước kia nghe kẻ bình dân quê mùa nói: Lời châu ngọc không kén chọn sang hèn; vẫn cho là lời phi lý. Giờ mới thấy, lời kẻ tiện nhân cũng đâu kém sâu xa”. “Chính vì vậy nên ta ủng hộ hoài bão của con, Bất Vi ạ! Hãy can đảm lên!”
“Có sự khích lệ của thầy, con thấy mình vững vàng biết bao!”. Lúc chia tay, Bá Hạ tháo chiếc vòng ngọc khắc rồng chạm phượng đang đeo trên mình trao cho Bất Vi, chân tình nói: “Rồi đây con đặt chân vào chốn thương trường. đi Nam về Bắc, thầy trò thật chẳng dễ gặp mặt nhau, con hãy giữ miếng ngọc bội này bên mình nhé! Có thể nó sẽ giúp con nhớ đến ta!”
Lã Bất Vi lưu luyến từ biệt Bá Hạ. Trên đường trở về nhà, chàng đã biết nên thổ lộ với cha chàng ra sao về những toan tính của mình.
Về tới nhà, chàng thấy cha đang một mình với chén rượu, thẫn thờ. Bất Vi không biết cha đang uống rượu mừng vì điện rước thần đã hoàn tất, hay đang uống rượu giải sầu vì chuyện chàng đã bị khước từ cho làm môn khách ở nhà Vệ Hoành. Bất Vi nghĩ, bất luận là cha đang uống rượu gì thì bây giờ chàng vẫn phải nói cho ông hay về ý tưởng của chàng.
Nghĩ vậy, Bất Vi ngồi xuống giường, rót đầy chén rượu cho cha. Rồi chàng kể hết một mạch cho cha những diễn biến trong lòng cháng một tháng nay, ý nghĩ của Bá Hạ tiên sinh và ý tưởng rời bỏ con đường mưu cầu tước vị, dấn thân vào chốn thương trường của mình.
Lã Bất Vi nói xong, nhìn cha không chớp mắt.
Thoạt tiên chàng thấy cha tỏ ra vô cùng kinh ngạc, sau đó lại hết sức bối rối. Chén rượu trong tay ông nghiêng đi khiến rượu tràn xuống. Nhưng rồi Lã Hâm cầm chén rượu ngay lại, đôi mắt ưu tư nhìn Bất Vi nói: “Những lời của con cũng có đạo lý. Nhưng việc này có can hệ đến tương lai của đời con và sự hưng suy của Lã gia, bởi vậy hãy để cha suy nghĩ rồi sẽ trả lời con”.
Suốt đêm, Lã Bất Vi cảm thấy mình như rơi vào trạng thái mơ màng, mung lung. Sớm hôm sau tỉnh dậy, đầu tiên đập vào mắt chàng là một thỏi vàng sáng chói được đặt nơi đầu giường. Lòng chàng rộn lên vì sung sướng: cha chàng đã đồng ý. Cha chàng bước tới, đặt tay nắm chặt vai Bất Vi nói: “Đây là số tiền mà ta và mẹ con dành dụm để lo chuyện hậu sự, con hãy dùng nó!”
Lã Bất Vi cầm lấy thỏi vàng, trông nó tựa chiếc khánh đá. Thỏi vàng ánh lên muôn ngàn tia sáng lấp lánh, như làm hiển hiện trước mặt chàng một không gian rực rỡ tựa gấm hoa. Chàng nhủ thầm: “Có tiền rồi, trước tiên ta phải trả mười dật vàng cho Vương Khuê”.
* * * * *
Một kẻ tha hương lòng mang hy vọng làm giàu đang xuôi thuyền trở lại cố hương.
Kẻ đó chính là Lã Bất Vi.
Chàng đã đem đổi thỏi vàng thành một nghìn tiền xu tới vùng sơn cước nước Lỗ mua trái đào nước, mua nửa đồng một cân, về Bộc Dương có thể bán được ba đồng, rất có lời lãi. Một thuyền chất đầy những trái đào tươi tỏa hương thơm ngọt cả lòng người. Lã Bất Vi đang ngược dòng, chỉ còn hai ngày đường nữa là chàng sẽ về tới nhà.
Sông rộng nước lặng, chỉ có tiếng mái chèo hối hả. Ông lão chèo thuyền vừa khua mái chèo vừa khen ngợi Lã Bất Vi, rằng chàng là con nhà giàu có mà chịu thương thịu khó. Lã Bất Vi cay đắng không biết nên khóc hay cười, hỏi ông lão tại sao có thể biết được chàng là con cái nhà có của. Ông lão bảo chàng mặc đồ xa hoa, chỉ riêng đôi ủng chàng đi cũng đáng giá trăm đồng. Lã Bất Vi nói, lão bá tuổi cao mắt kém rồi, đôi ủng này đâu phải đồ quý, chẳng qua cũng chỉ là thứ rách nát tầm thường, có chăng chỉ là màu sắc hoa văn trông vừa mắt chứ chẳng đáng giá là bao.
Lã Bất Vi từ trong khoang ngắm nhìn con thuyền chở hàng của mình đang xuôi mái rẽ sóng trên dòng Bộc Dương. Hai bên bờ sông núi cao trùng điệp, rừng xanh mênh mông. Tình cờ thay có một người con gái xiêm y rực rỡ đang ngắt lá đùa cành. Lã Bất Vi tức cảnh sinh tình, ý thơ dào dạt, cất giọng trầm bổng ngâm bài “Cô gái hái sắn dây”.
Hỡi cô hái rau
Một ngày không gặp
Ba tháng xa nhau
Hỡi cô hái rau
Một ngày không gặp
Ba năm xa nhau
Hỡi cô hái rau
Một ngày không gặp
Mùa thu xa nhau.

Trong giây lát, Lã Bất Vi bỗng chợt nhớ tới Hoàng Phủ Kiều, cô gái nô lệ mà chàng đã từng phải đi mượn bạn số tiền chuộc cô. Giờ đây không biết cô đang lưu lạc phương nào, nương thân nhờ ai, hơi người con gái dễ khiến lòng người xao động! Cái vết dấu đỏ hằn lên giữa hai hàng lông mày như một ký ức khó quên lưu lại trong lòng người. Bắt đầu nghiệp thương nhân từ những trái đào, ta sẽ phải tích tiểu thành đại, kiến tha lâu ắt đầy tổ, rồi tiền bạc ắt sẽ như dòng nước này chảy về Lã Bất Vi ta. Ta phải đi tìm Hoàng Phủ Kiều để thổ lộ lòng ta với người con gái xinh tươi tựa hoa nguyệt này. Dẫu cho không tìm được nàng, ta cũng sẽ phải cưới một người con gái tài sắc vẹn toàn làm vợ, rồi ta sẽ mua thêm một, hai nô thiếp xinh đẹp, lễ phép, dịu dàng làm bầu bạn, cuộc sống ngát hương, phong lưu hạnh phúc.
Hoàng hôn buông xuống bao phủ một màu xanh mênh mang lên núi đồi đen sẫm.
Trời chẳng mấy chốc tối hẳn. Thuyền neo bờ, Lã Bất Vi cùng ông lão chèo thuyền ăn cơm tối trong khoang thuyền. Quãng nửa đêm, tiếng sấm ì ầm chợt vang lên, dội xuống mặt sông. Lã Bất Vi bừng tỉnh, thấy trời đang trút mưa ào ào. Chàng nghiêng tai lắng nghe tiếng nước vỗ mỗi lúc một to, biết rằng mưa đang lúc một dữ dội trong đêm. Trời sáng, Lã Bất Vi cũng chỉ đành ngồi nhìn không chớp mắt vào màn mưa trắng xóa đến tận buổi trưa mà chưa hề có ý dứt. Lã Bất Vi vội giục ông lão chèo thuyền khởi hành nhưng ông lão nhìn dòng nước chảy xiết đục ngầu nói, đỉnh lũ ở thượng nguồn quá mạnh, thuyền không xuôi nổi, Lã Bất Vi lấy hai trái đào từ sọt lên nhìn, đào đã nhũn do bị nóng. Chàng hiểu, nếu nhỡ nhàng ở đây chờ đợi hai ngày thì cả thuyền đào tươi của chàng e là nẫu như cháo mất.
Lòng chàng nóng như lửa đốt, khẩn khoản xin ông lão khởi hành mặc trời mưa. Ông lão cho chàng hay ông chưa bao giờ chèo thuyền giữa lúc nước cuộn dữ dội như thế này, nếu mạo hiểm lên đường thì đừng có nói là đào chứ đến cả hai con người trên thuyền này cũng làm mồi cho hà bá. Sau buổi trưa, mưa to hơn, dòng nước cuộn sóng gầm lên nghe như tiếng trâu rống. Sau một ngày một đêm đợi chờ trong mưa, Lã Bất Vi như đứng trên đống lửa ngồi trên đống than. Chàng muốn lên bờ bán tống bán tháo số đào nhưng hỏi ông lão chèo thuyền mới biết thị trấn gần nhất cũng cách đây đến ba mươi dặm. Đường thì trơn, ngựa khó đi. Hy vọng bán đào của chàng cũng tan như bong bóng.
Lại thêm một ngày trôi qua, sau cơn mưa trời sáng dần, mây tan trời quang. Chàng thấy ông lão chèo thuyền đang trút sạch đống đào nhũn nhoét đầy khoang của chàng xuống sông, nhẹ nhàng thoải mái như đấy là một đống phân thải vậy. Và rồi sau đó con thuyền lướt đi tựa như chiếc lá trôi.
Lã Bất Vi bắt đầu lê những bước chân nặng nề trên mặt đường đầy bùn nước hướng về phía Bộc Dương. Lòng trĩu nặng buồn đau, chàng thấy con đường như dài thêm. Mãi đến lúc chiều tà, Lã Bất Vi mới đến một thị trấn nhỏ có bóng người. Tìm một lữ điếm, ăn một chút lót dạ, chàng hỏi thăm và biết Bộc Dương còn cách đây chừng chín mươi dặm đường, thân thể rã rời, chàng cũng chỉ còn cách trú chân ở đây một đêm, đợi sáng mai lên đường sớm. Chỉ kịp đặt lưng xuống giường, Lã Bất Vi ngủ say một mạch, sáng hôm sau lúc mặt trời đã lên cao ba con sào mới tỉnh giấc. Chàng sờ khắp người, chỉ còn sót lại vài đồng bạc. Bất Vi sợ toát mồ hôi, lấy gì để trả tiền ăn ngủ đây? Chẳng lẽ đào tẩu ư? Chàng khẽ gạt bức mành nhìn ra, chủ tiệm cùng đám gia nhân đang bận rộn làm việc. Giá có đào tẩu mà bị tóm lại thì chắc hết chốn dung thân, cầm chắc bị dẫn lên quan phủ. Đã đến nước này thôi thì đành mặt dạn mày dày mà đi tìm chủ tiệm xin khất nợ.
Chủ tiệm cười khẩy nói, “Khất nợ ư? Thế ngươi không trả thì ta biết tìm ngươi ở đâu?” Chủ tiệm lướt ánh mắt khinh thị nhìn từ đầu xuống chân Lã Bất Vi một lượt bảo, nói không đủ tiền thì lột đôi ủng dưới chân ra mà trả. Lã Bất Vi đành tháo ủng trước con mắt của bao nhiêu kẻ vây quanh, vội vã bước đi, ngậm đắng nuốt cay trước ánh mắt giễu cợt của những con người xa lạ.
Lã Bất Vi thất thểu tới bờ sông Bộc Dương, ấp điền nơi chàng sống đã hiện ra trước mắt, chàng cảm thấy hai chân rã rời. Sông Bộc Dương chảy uốn lượn theo thành ấp, vừa là mạch đường thủy vận, vừa là nơi người dân trong thành ra giặt giũ tắm rửa. Vào những ngày nóng nực, khắp bờ sông rộn rã tiếng hồ đập quần áo, tấp nập những cánh buồm và râm ran tiếng cười nói. Giờ đây, trước mắt chàng là mấy cô gái má thắm môi hồng, váy dài lướt thướt đang đuổi nhau nô đùa trên bãi cát. Lã Bất Vi sợ người khác trông thấy cái bộ dạng thảm hại của chàng, vội vàng ẩn mình trong đám rau khao tử um tùm bên bờ sông. Chàng cảm thấy hai bàn chân rát như phải bỏng, liền nằm xuống bãi cỏ nhìn lên bầu trời. Lã Bất Vi khẽ ngước đầu lên, trên kia, những đám mây trắng nhẹ nhàng trôi, lúc thì chụm lại, lúc lại tản ra, tựa hồ như cuộc đời phiêu du của con người. Chàng từ chỗ là một môn khách của nhà Vệ Hoành đại phu tiền đồ sáng lạn bỗng chốc trở thành một tay buôn đào đắc ý tiền nhiều để rồi cuối cùng chỉ trong nháy mắt trở thành một kẻ khốn nạn bần cùng gục ngã. Người cha già vì chàng mà dốc cạn hầu bao với bao kỳ vọng về chàng, dõi theo từng bước chàng đi và mong ngày khải hoàn, vậy mà chàng đã làm tiêu tan hy vọng của cha, đã bỏ sông bỏ bể số tiền mà cha mẹ chàng dành dụm, chàng còn phụ những lời răn dạy chí tình của Bá Hạ tiên sinh và trở thành trò cười cho Tống Kỳ, cho đám bè bạn, anh em ở tiệm tơ lụa. Đường đường một đại trượng phu sống nhục nhã với đời chẳng bằng chết đi hay sao. Nghĩ quẩn quanh một hồi, Lã Bất Vi quyết định nhảy xuống sông tự vẫn, đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình - một chàng trai mới mười tám tuổi. Dòng sông êm ả trôi, siêu nhiên thoát tục, rồi linh hồn chàng cũng sẽ dạt trôi nơi chân trời, tìm đến với sự giải thoát và bình yên.
Lã Bất Vi biết lòng mình đã quyết, chàng cố sức lê đôi chân giờ đã rã rời không còn muốn nghe theo sự điều khiển của chàng nữa khó nhọc bước tới bên bờ sông. Đúng vào lúc chàng đang cúi nhìn những gợn sóng lăn tăn và những xoáy nước trên mặt sông để tìm nơi trẫm mình, bỗng chàng nghe thấy có tiếng ai tựa như tiếng chuông ngân đang gọi tên chàng. Bất Vi ngỡ là mình đang mơ. Chàng hướng mắt về phía tiếng gọi, và đập vào mắt chàng là một vết dấu đỏ xinh xắn đến nao lòng. Là Hoàng Phủ Kiều, chính là Hoàng Phủ Kiều, đích xác là Hoàng Phủ Kiều!
Bất Vi nhìn thấy Hoàng Phủ Kiều mặc một chiếc váy mới tinh, hoa văn sặc sỡ, gương mặt nàng hồng hào, tràn trề sức sống, chàng không còn nhận ra đó là cô gái nô lệ hôm nào phải lánh nạn trong kho thóc ở nhà chàng nữa. Lã Bất Vi vội hỏi Hoàng Phủ Kiều về những chuyện đã xảy ra sau khi nàng rời khỏi nhà chàng. Hoàng Phủ Kiều nhìn Bất Vi hồi lâu, ánh mắt như nói bao điều, rồi kể, sau khi rời khỏi nhà chàng, nàng đã đi khắp nơi để tìm anh trai, sau đó, nàng được một người tốt bụng tên là Phùng Quân Úy cứu giúp và nàng đã nhận ông làm nghĩa phụ. Khi Phùng tiên sinh mang mười dật vàng đến nhà Phàn Bình định chuộc thân cho nàng mới được người ta cho hay đã có một người trả tiền chuộc cho Hoàng Phủ Kiều rồi. Nàng đoán người đó hẳn là Lã công tử. Hai ngày trước đây đến nhà chàng hỏi thăm mới hay Lã công tử đã đi buôn bán đào rồi.
Lã Bất Vi xấu hổ kể lại cho Hoàng Phủ Kiều nghe chuyện buôn bán đào của mình, đoạn nói: “Buôn bán đến trắng tay, lòng như lửa đốt, chẳng thà chết đi còn hơn!” Hoàng Phủ Kiều vội nói: “Sao Lã công tử lại nói năng hồ đồ đến vậy! Như thiếp phận gái liễu yếu đào
Về Đầu Trang Go down
xuanha242
Thành viên lớp
Thành viên lớp
xuanha242


Tổng số bài gửi : 70
Join date : 13/04/2010
Age : 32
Đến từ : Tam Lộc

Lã Bất Vi Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lã Bất Vi   Lã Bất Vi Icon_minitimeSat Apr 17, 2010 2:13 pm

Chương 3 Số phận khó lường


Độc giả đọc tới chương này, giống như người đang xem một vở kịch mà trên sân khấu dần chuyển tới bối cảnh mới. Thành Hàm Đan năm năm sau, Lã Bất Vi đã khác xa với anh buôn ngựa xưa kia. Theo ngòi bút, tới những con phố lớn, bạn có thể gặp nhiều cửa hiệu của dân thường rất nguy nga. Ngựa xe tấp nập, thanh nữ ngày thêm nhuận sắc, tất cả đều nồng thắm, nét mặt ánh lên niềm hứng khởi. Từ quán lầu lớn vọng ra tiếng nhạc réo rắt mê hồn như ru lòng người vào cõi mộng. Tiếng rao bán của gánh hàng rong trên phố lại càng khiến người ta như muốn lạc bước ngơ ngẩn hồn xiêu phách lạc. Cuộc sống giàu có phù hoa khác hẳn với nước Hàn nghèo nàn vắng lặng.
Cuộc sống đã làm thay đổi cả cuộc đời Lã Bất Vi. Trong ngõ phố phồn hoa nhất thành Hàm Đan, một cửa hiệu biển hàng phấp phới, tấp nhập kẻ ra vào, nhìn kỹ là biển hiệu rất quen thuộc, không nói cũng hiểu, Lã Bất Vi đã tới thành Hàm Đan buôn bán, sinh lời bội phần ở xưởng “Long Xương Quảng”.
Bất Vi ở nước Hàn có chỗ đứng vững chãi, vây cánh đông đảo, tại sao còn dời tới nước khác, bỏ công phí sức làm gì? Chính vì Lã Bất Vi là người có nhãn quang chính trị rất sâu rộng. Lúc đó ở nước Tần, Chiêu Tương vương tuổi cao, cầm quyền khá lâu, sủng ái vị Tướng quốc Phạm Thư. Phạm Thư thực hiện chiến lược “Viễn giao cận công” (gần thì đánh, xa thì giữ mối giao hảo). Bất Vi dự đoán, nước Hàn sẽ là mục tiêu đầu tiên để Tần quốc thực hiện đường lối này. Nước chư hầu này giống như chiếc lá vàng trong gío thu sớm muộn sẽ bị cuốn trôi. Vị trí nước Tần là: phía Bắc là nước Ngụy, nước Sở phía Nam, nước Thục phía Tây, nước Hàn phía Đông. Trong bốn nước chư hầu này, đất đai giữa nước Hàn và nước Tần đan cài xen chéo, núi sông một dải vì thế nước Hàn trở thành mối họa bên trong của Tần quốc. Vì thế, nếu Tần khởi binh, nước Hàn sẽ là nước đầu tiên cần tiến đánh. Năm 265 trước CN, sau khi chiếm được Tiểu Khúc và Cao Bình của nước Hàn, Bạch Khởi được cử làm Nguyên soái thống lĩnh binh Tần. Đây là vị Tả đô Trưởng đa mưu túc trí, tàn sát không ghê tay, quyền lực lớn mạnh dưới Chiêu Tương vương. Triều Tần nếu nào có quan hệ huyết thống, tông tộc với vua gọi là Đô Trường, còn không có họ hàng gì gọi là Tả Đô Trường. Vị Tả Đô Trường này có công lớn trong việc dẹp tan liên quân Hán, Sở, Ngụy được phong là Vũ An quân. Mấy mươi vạn quân dưới sự thống soái của Bạch Khởi tiến quân ra trận làm quân Hàn chưa đánh đã tan, ùn ùn tháo chạy.
Lã Bất Vi biết rõ, lòng binh sĩ nước Hàn dao động, bất yên, lòng dân ly tán. Nam đinh trong thành Dương Địch đều bị sung vào quân đội, số trẻ em phụ nữ còn lại lo sợ hoang mang. Có không ít người đã bỏ nhà, dời đến các nước chư hầu khác. Lã Bất Vi không thể khoanh tay nhìn bao châu báu ngọc ngà của mình bị mất. Bất Vi thấy rằng ở nước Hàn, đừng nói là phong hầu bái tướng mà kể cả quân vương, rốt cuộc cũng trở thành vị vua vong quốc “mỏi mắt trông tin nhạn, nơi miếu từ hát khúc bi ca” mà thôi.
Cho dù nước Hàn đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng, chỉ cần nhìn thấy lợi, Lã Bất Vi vẫn không bỏ cơ hội kiếm tiền. Bây giờ, Lã Bất Vi đang cùng Triệu Khôi Tử bắt tay vào vụ buôn bán lương thực lớn.
Một hôm, người đến mua hàng lương thực vẫn ra vào tấp nập như mọi ngày, mấy người gia nhân mồ hôi như tắm đang tính toán giá cả lên xuống, gạo kê trong các thăng trắng như ngọc, long lanh như giọt mồ hôi của đám người làm. Bụi cám gạo, kê bốc lên như bụi đường, càng thu hút ánh mắt mọi người. Mấy ngày nay, mấy vạn thạch lương đã chất đầy trong kho của Triệu Khôi Tử. Người ở thành Hàm Đan luôn nhìn thấy dáng vẻ phương phi của Lã Bất Vi và dáng điệu gày ốm của Triệu Khôi Tử đứng nhìn kho lương thực, ánh mắt thỏa thuê như người đàn bà chửa vớ được của chua. Chưa đầy vài ngày sau, giá lương thực bán ra đã cao vọt. Đầu mùa xuân, hạn hán kéo dài làm cho đất đai nước Hàn khô cằn nứt nẻ, người dân nước Hàn chỉ tuyệt vọng nhìn đồng ruộng hoang tàn, thu về những hạt thóc lép. Ở nước Hàn, đặc biệt tại thành Dương Địch, giá lương thực tăng vọt. Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử đã không bỏ lỡ dịp này.
“Không nhận nữa, không nhận nữa!”, một tiếng nói đanh gọn vang lên trong kho. Mấy người lau mồ hôi ngoảnh ra mới biết là tiếng của lão quản gia. Đó là Triệu Thành, mấy chục năm nay, chân chất phục dịch cho nhà Triệu Khôi Tử. Triệu Thành nhìn xung quanh với ánh mắt ngờ vực rồi dõng dạc nhắc lại một lần nữa: “Không nhận nữa, không nhận nữa!”. Đám gia nhân hiểu đó là chủ ý của Triệu Khôi Tử. Họ rút tay khỏi đấu thăng, đứng thẳng dậy, thở hổn hển.
Những xe lương xếp đống, xếp hàng trước cửa, theo lời của Triệu Thành không nhận lương thực, tiếng xì xào bàn tán rộ lên, lẽ nào họ thức khuya dạy sớm để xếp hàng bán đồ lại trở về tay không, tại sao lại không mua lương thực nữa?
Triệu Thành rỉ tai đám gia nhân vài câu rồi vội vàng quay về. Triệu Thành biết là Lã Bất Vi và chủ nhân của hắn đang nóng lòng chờ tin tức.
Quả nhiên, lúc này, Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử như đang ngồi trên lửa, họ ngồi trong phòng khách của Triệu phủ nhâm nhi chén trà, mỏi mắt chờ trông Triệu Thành đi phát lệnh trở về.
Khi ấy lưu truyền lại câu nói: “Xiêm áo ưa hát, tiền bạc mong buôn”. Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử vốn là những thương nhân giỏi giang, lại cùng nhau sinh lợi thật như hổ thêm cánh, rồng thêm vây. Hai người đang tính toán tiền lời trong vụ bán mua lương thực này, có một vị hộ vệ ngày đêm bên thành Triệu Hiếu Thành Dương, ngày thường cũng qua lại với Lã Bất Vi, báo cho Bất Vi một tin động trời: Nước Tần chuẩn bị xuất binh tiến đánh nước Hàn. Vua Trần Chiêu Tương vương sai sứ giả đến nước Triệu và các nước chư hầu không được cấp lương thảo và binh khí cho nước Hàn, nếu ai dám giúp nước Hàn, binh lính Tần sẽ quay lại tấn công ngay nước ấy.
Lã Bất Vi biết rõ, cho dù hiện tại Triệu Hiếu Thành vương chưa chính thức tuyên triệu, cũng chưa xuất binh và lương thực giúp Hàn nhưng vị vua này không dám chống lại vua Tần bạo sát, uy danh lừng lẫy thiên hạ. Việc tuyên triệu làm theo ý chỉ của Tần vương chỉ là chuyện sớm chiều mà thôi.
Tình hình thay đổi khiến Triệu Khôi Tử nao núng, lóng ngóng hỏi Lã Bất Vi: “Chúng ta giữa đường đứt gánh, không mua nữa nhé?” Nói xong, Triệu Khôi Tử nóng lòng như lửa, đi đi lại lại trong phòng. Bất Vi nhìn thấy vị thương nhân thường ngày đĩnh đạc nay sốt ruột như kiến gặp mưa thì cảm thấy buồn cườn. Nhưng Lã Bất Vi biết, lúc này mà cười sẽ khiến người ta tức giận, không chừng sẽ hỏng mọi việc, Bất Vi muốn thay đổi tình hình nhưng cố nén không muốn bộc lộ cảm xúc.
Bất Vi nói: “Còn mua gì nữa? Bây giờ còn chưa biết phải sắp xếp hơn trăm thạch lương ra sao đây?”
Triệu Khôi Tử nói: “Chúng ta không thể đứng giương mắt trông bụi phủ kho được!”
Bất Vi nói: “Triệu huynh đừng đùa! Không mất triệu thạch lương sao được? Theo lão đệ, trừ khi Triệu vương không tuyên triệu, may ra mới đem số lương này về nước Hàn, chỉ còn cách bán lỗ để giữ vốn thôi”.
Triệu Khôi Tử nói: “Bán lỗ giữ vốn, định giở vai cho trời xem sao, hai lần tiền bỏ xuống sông biển à?”
Lã Bất Vi thấy thật hài hước, chỉ nói tới lỗ vốn, thì vị công tử ăn nói nho nhã hàng ngày đã biến thành hạng thô tục rồi. Triệu Khôi Tử thấy Lã Bất Vi như vậy bèn trách: “Lẽ nào Lã huynh lại ung dung tự tại, ngồi chờ buông câu! Tình thế này lại còn cười đùa. Theo ý tôi, nên dùng một số xe ngựa, mau chóng chuyển số lương này đến Dương Địch”.
Bất Vi nói: “Việc này không thể tùy tiện như vậy. Điều xe đánh ngựa chuyển hàng đi xa, sẽ không tới được cổng thành, Triệu vương hạ lệnh bắt quay về thì mất cả chì lẫn chài!” Triệu Khôi Tử nói: “Từ Hàm Đan đến Dương Địch, quá lắm cũng chỉ mất bốn ngày đường, lệnh của Triệu vương không thể tới nơi nhanh như thế!”
Bất Vi nói: “Đây là lời nói của quân vương, chỉ hạ lệnh thì nửa ngày cũng tới”.
Thấy Bất Vi dùng dằng, Triệu Khôi Tử nói: “Nếu là tôi thì ngay bây giờ sẽ điều chuyển xe chở lương”.
Lã Bất Vi nói: “Không thể hồ đồ! Không thể hồ đồ như vậy! Nếu kháng lệnh chỉ, lời lãi đâu chưa thấy, còn nguy đến tính mạng”.
Khi Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử đang bàn đi tính lại cho việc bán buôn, thì nghề ca xướng kỹ nữ vẫn tiếp tục thịnh hành như không có chuyện gì xảy ra. Đây là nghề kỹ nữ kinh doanh thân xác phụ nữ, đem thân làm món hàng lại qua, song chỉ vài ba năm hương phấn đã phai tàn.
Ca kỹ vẫn là ca kỹ. Thời cổ đã có nhiều “xóm đào” kiểu này. Người đặt nền móng cho nghề này là Tề Hoàn công. “Sách Đông Chu Chiến Quốc” viết: “Tề Hoàn công quản năm sáu thành, xóm liễu đào có tới 700 nơi”; sách “Hàn Phi Tử - Thuyết nan” cũng viết: “Chư hầu Tề Hoàn công quản hai thành với 300 xóm nữ ca”. Xóm nữ ca mà Tề Hoàn công đặt ra là có thật, chỉ có điều số lượng ghi trong các sách không giống nhau. Ban đầu, nghề ca kỹ vốn chỉ ý là những người chuyên mua vui cho thiên hạ, họ sống trong các kỹ viện hoặc các “xóm liễu đào” gọi là kỹ nữ. Cư Chử Nhân “Kiên Hồ tập tục” có nói: “Quân tử trị tề, tri nữ lư tam bách, chinh kỳ dạ hợp chi tư, dĩ tư quốc dụng. Ti Khước giáo phường hoa phấn tiền chi thủy dã” ý chỉ là mục đích của Quản Trọng trong việc đặt ra xóm chị em đã chưng thuế làm giàu đất nước. Việc này cũng thường thấy ở các nước Quy Từ, Vu Điền (Tây Vực) và một số nước chư hầu sau này. Theo “Thập tam châu chí” ghi: “Phía Đông thông linh, con người háo sắc, Quy Từ, Vu Điền đặt xóm nữ thu tiền”. “Ngụy Thư - Quy Từ Tuyền” cũng nói: “Quy Từ thông thục, đặt chức quan thu thuế phường ca kỹ”.
Đây là Lạc Dương Cốc thay Triệu Hiếu Thành vương quản lý kỹ viện. Người này thường mua lương thực cho xóm chị em nên cũng biết Triệu Khôi Tử song chưa từng gặp Lã Bất Vi. Triệu Khôi Tử giới thiệu: “Vị tiên sinh này là thương nhân buôn châu ngọc...”, không đợi Triệu Khôi Tử nói hết, Dương Cốc kính cẩn nói: “Nếu như tôi không nhầm, vị này chính là Lã Bất Vi danh bất hư truyền”. Triệu Khôi Tử bật cười sảng khoái: “Đúng là Dương cốc tiên sinh có con mắt tinh đời!” Bất Vi vội cúi mình hành lễ, nói với Dương Cốc: “Hân hạnh, hân hạnh được biết”. Dương Cốc nói: “Lã tiên sinh phong thái đường hoàng, từ trước tới giờ chưa từng lui đến xóm liễu đào này, thật đáng mặt một vị chính nhân quân tử”. Bất Vi cười, khiêm tốn trả lời: “Thực không dám. Lã Bất Vi không phải là chính nhân quân tử như lời Dương Cốc ngợi khen, chỉ là thương nhân tầm thường, không xứng với lời của Lạc tiên sinh”. Lạc tiên sinh nói: “Chỉ cần Lã huynh có nhã hứng, sau này có tuyệt sắc giai nhân tôi xin tặng lại cho Lã tiên sinh”.
Hàn huyên một hồi, Lạc Dương Cốc và Triệu Khôi Tử quay ra ngã giá lương thực. Vị này mỗi tháng đến mua một lần cho xóm chị em. Bất Vi thấy nét mặt phốp pháp, trơn bóng của Dương Cốc, dường như tự mình tìm được viên ngọc quý hiếm. Bất Vi biết tên “đại trân châu” này sẽ giúp mình tới bên Triệu Hiếu Thành vương dễ như trở bàn tay. Vì chỉ là người thân tín của Thành vương mới được giao trọng trách này.
Bất Vi thấy cuộc nói chuyện giữa hai người gần kết thúc, không bỏ lỡ dịp may hỏi Lạc Dương Cốc: “Nghe nói vua Tần đưa thư cho Triệu vương, không cho phép xuất binh và lương thảo giúp nước Hàn, không biết Đại vương chúng ta dự định như thế nào?” Dương Cốc nói: “Trong cung chưa thấy động tĩnh gì, nhưng xem ra Đại vương không thể kháng lại ý chỉ của Tần vương”.
Sau khi Dương Cốc ra về, Khôi Tử mời Bất Vỉ ở lại phủ uống rượu, bàn tính về cách giải quyết cho hơn một trăm thạch lương. Suy đi tính lại vẫn chưa có lối thoát. Tiệc rượu sắp tàn. Khôi Tử gọi con gái độc nhất của mình là Triệu Cơ ra múa hát mua vui.
Triệu Cơ chỉ trang điểm qua loa, thoa chút phấn hương, nhẹ nhàng bước ra, tới trước yến tiệc, phất nhẹ tay áo, múa nhẹ như bay. Năm nay Triệu Cơ mười tám tuổi, đang lúc dậy thì khoe hương. Lã Bất Vi nhìn sắc mặt hồng hào của Triệu Cơ tưởng như đá mã não mịn màng, đôi lông mày thanh tú, đôi mắt như hớp hồn người khác, đôi môi chúm chím hoa đào, chiếc mũi cao nhỏ nhắn, tất cả như nét điêu khắc tinh xảo trên khuôn mặt trái xoan kiều diễm. Cổ áo hơi rộng để lộ khoảng ngực trắng ngần gợi cho người ta lạc vào cõi mê với bao liên tưởng kỳ bí. Triệu Cơ dùng tiếng hát ngọt ngào ngân lên điệu ca réo rắt thu hồn Lã Bất Vi. Bất Vi biết từng tế bào trong con người đang thay đổi. Trước đây khi đến Triệu phủ cũng từng gặp mấy vị ở vườn hoa hay trong phòng khách. Không biết do tâm ý thô thiển hay do mải buôn bán mà Lã Bất Vi không hề có ấn tượng gì.
Hôm nay Bất Vi mới phát hiện vẻ đẹp quyến rũ của Triệu Cơ. Triệu Cơ vừa hát vừa múa:
Quan quan tư cưu
Tại hà tri châu
Yểu điện thục nữ
Quân tử hảo cầu
Tham sai hạnh thái
Tả hữu lưu chi
Yểu điệu thục nữ
Ngộ mị cầu chi...

Khoảng 23 năm sau, Triệu Cơ với Trường Tín hầu thông dâm làm loạn nội cung, sau khi bình định phản loạn, Triệu Cơ bị chính Tần vương Doanh Chính con đẻ của mình đày sang đất Ung hoang sơ vắng vẻ, cô độc với ngọn đèn thâm cung. Ba trăm lính hầu như một hàng rào vững chắc, Triệu Cơ trở thành vị Thái hậu bị gông cùm. Lúc ấy, Lã Bất Vi cũng bị bãi chức Thừa tướng, sức tàn lực kiệt quay về thực ấp ở Hà Nam. Trước khi đi, một mình lặng lẽ tới Hàm Dương, muốn cáo biệt với người con gái bao lần chung chăn gối. Bất Vi nghe trong gió như lời ca của Triệu Cơ như oán như than, đúng là tiếng hát của Triệu Cơ. Tuy không còn trong trẻo như hồi trẻ nhưng tiếng ca vẫn réo rắt như dạo nào:
Quan quan tư cưu
Tại hà tri châu
Yểu điện thục nữ
Quân tử hảo cầu
Tham sai hạnh thái
Tả hữu lưu chi
Yểu điệu thục nữ
Ngộ mị cầu chi...

Bất Vi lắng nghe, bất giác rơi lệ, trong lòng rộn lên bao mối tơ vương, trong tim thốt bao tiếng nghẹn ngào: “Ôi, Triệu Cơ! Quyến rũ, si tình...”
Kẻ hầu người hạ trong cung Tấn Dương nhớ rõ ràng, Triệu Huệ Văn vương triệu tập quần thần thảo luận về việc nên hay không giúp nước Hàn, không khí ảm đảm như bóng đêm giữa trời quang. Vị quân vương ngày thường oai phong đĩnh đạc lộ rõ vẻ bần thần. Ấn tượng sâu nhất của vua Triệu trong lòng kẻ hầu người hạ là hình ảnh quân vương quên cả đeo ngọc bội, quần áo mớ ba mớ bảy lôi thôi luộm thuộm. Họ hiểu rằng, vị Đại vương này bị bức thư của vua Tần dồn vào thế tiến thoái lưỡng nan.
Họ đoán không sai, vua Triệu bị bức thư ấy làm rối loạn tâm thần đứng ngồi không yên. Ông ta triệu tập đủ văn võ bá quan trong cung Tấn Dương hoành tráng nghị sự. Thiết triều có nhiều vị quan lớn như Tướng quốc, Bình Nguyên quân Triệu Thắng, Thượng khanh Lạn Tương Như, Đại tướng quân Liêm Pha, Tướng quân Triệu Xa... Trong số đó, Triệu Huệ Văn vương coi trọng Bình Nguyên quân hơn cả.
Triệu Thắng ngoài ba mươi tuổi, tuổi quan đang độ, sớm quen việc triều đình. Đây là anh em với Triệu Huệ Văn vương, trong đám huynh đệ, là vị công tử tài ba hơn cả. Bình Nguyên quân thích nuôi môn khách, trước sau tới vạn người, Thời Chiến Quốc có rất nhiều tông phái, họ chủ trương: “nhân, nghĩa” hay tuyên truyền: “hình danh”, “vô vi”... Vì thế có các học phái Nho, Đạo Mặc... Kẻ sĩ đương thời là thế lực quan trọng trong xã hội, họ đều có sở trường và trình độ văn hóa nhất định. Chỉ dùng tấc lưỡi đi du thuyết các nước không từ quốc gia, tôn giáo hay địa vị chính trị, kinh tế. Đem tài năng của mình mưu cầu đãi ngộ, quan tước các nước chư hầu. Những người này vì mưu cầu phú quý, ra nước ngoài thường làm quân sư ở chư hầu. Trên đài chính trị, cũng có nhiều người thực tài góp công lớn. Các nước chư hầu muốn thực hiện sự nghiệp thống nhất thiên hạ, nên không tiếc công sức, hao tốn của tiền, đua nhau chiêu hiền đãi sĩ. Bấy giờ có bốn vị công tử nổi tiếng là: Mạnh Thường quân (nước Tề), Bình Nguyên quân (nước Triệu), Tín Lăng quân (nước Ngụy) và Xuân Thân quân (nước Sở). Họ đều dùng bổng lộc, của cải của mình mà đãi ngộ khách, gọi là “thực khách”. Cả bốn vị này đều đua tài tranh sức, xem ai là người có nhiều môn khách nhất. Nghe nói, nước Triệu cho người khách què, chân khập khiễng ra múc nước, mỹ nhân của Triệu Thắng trên lầu cao trông thấy cười rộ. Hôm sau người què đến cửa nhà Bình Nguyên quân nói: “Tôi nghe nói ngài yêu kẻ sĩ, sở dĩ kẻ sĩ không ngại xa ngàn dặm mà đến đây là vì ngài biết quý kẻ sĩ mà khinh thường bọn tì thiếp. Tôi không may bị tàn tật mà hậu cung của ngài lại cười. Tôi xin cái đầu của con người đã chế nhạo tôi”. Bình Nguyên quân cười đáp: “Vâng” Người què đi ra, Triệu Thắng cười mà rằng: “Thằng kia lại muốn lấy cớ một nụ cười mà đòi giết mỹ nhân của ta, thật là quá đáng”. Rốt cuộc, Bình Nguyên quân không giết.
Được hơn một năm, tân khách, môn hạ, xá nhân dần dần bỏ đi quá nửa. Bình Nguyên quân lấy làm lạ nói: “Thắng đối đãi với các vị chưa hề dám thất lễ. Tại sao nhiều người bỏ đi như thế?” Một môn khách đứng ra nói: “Vì ngài không giết mỹ nhân đã cười nhạo con người què kia, vì ngài yêu sắc đẹp mà khinh thường kẻ sĩ nên kẻ sĩ bỏ đi đó thôi”. Bình Nguyên quân bèn chém đầu mỹ nhân đã cười nhạo, đoạn thân hành đến nhà người què tạ lỗi.
Sau đó, môn hạ dần dần trở lại. Trong hàng vạn môn khách cũng có kẻ theo đám ăn tàn, gà què ăn quẩn cối xay, cũng có không ít người thực tài, có tầm nhìn xa trông rộng. Triệu Thắng cũng hội tụ nhiều tinh hoa, trở nên tiếng tăm lừng lẫy nước Triệu, vị quân tử có tài kinh bang tế thế.
Triệu Huệ Văn vương đem nội dung bức thư của nước Tần thuật lại một lượt, sau đó nói: “Chư vị ái khanh, có diệu kế gì, xin nói để quả nhân nghe thử”.
Triều đường im lặng như tờ.
Thấy văn võ bá quan ngồi bất động, Triệu Huệ Văn vương hai tay chống ngự án, lo lắng ưu sầu nói: “Tần vương không cho phép giúp nước Hàn thương thảo binh khí, thật khéo ép quả nhân lắm. Không làm theo, Tần vương động binh một lời nói ra không làm trái, không tránh nổi nạn can qua cho nước Triệu. Nếu làm theo thì đắc tội với nước Hàn. Nếu nước Tần trở mặt đánh nước Triệu, nước Hàn khoanh tay đứng nhìn hay vỗ tay trợ giúp, chúng ta trở thành nhà cô nước lẻ...”
Triệu Thắng tiến lên một bước nói: “Khởi bẩm Đại vương, theo ý thần chúng ta nên đồng ý với vua Tần, không xuất binh và lương thảo giúp Hàn, không giao ước với Hàn nhưng nước Tần cũng phải đồng ý cho chúng ta điều kiện là nước Tần không được xâm hại nước Triệu, nếu Hàn cất quân báo thù Triệu, nước Tần phải ra tay giúp đỡ”.
Triệu Huệ vương trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Thế cũng được nhưng chỉ y lòng người khó lường, nói rồi lại nuốt lời. Chuyện Ngọc Bích họ Hòa, nếu không có Lạn Tương Như đa mưu túc trí, mang ngọc trở về Triệu, chúng ta mới không bị lừa. Chuyện này Tần vương cũng có thể thề thốt nhưng lời nói gió bay, đến lúc vua Tần trở mặt, mình làm mình chịu, hắn đem lời thề ước ban đầu cho lên chín tầng trời, quả nhân không thể van xin hắn!”
Triệu Thắng quả quyết: “Chúng ta có thể xin Tần vương phái cháu con đến Triệu làm con tin. Nếu người đến thì họ thực tâm theo lời thề ước. Nếu người không đến, ta có thể đoán trước sự việc, tùy cơ ứng biến, tất sẽ phòng được!”
Nghe chủ ý của Triệu Thắng, Triệu Huệ Văn vương cảm thấy như trút được gánh nặng, tấm tắc ngợi khen: “Thật là thượng sách, không gì sánh bằng!” Quần thần cùng đồng thanh: “Đúng là thượng sách!”
Triệu Huệ Văn vương thấy như đám mây mù bấy lâu che phủ chợt tan biến, gánh nặng chất trên vai mấy hôm nay bỗng dưng nhẹ bẫng. Vương sung sướng hồ hởi nói: “Lạn thượng khanh, mau thảo một bức thư, đưa đến Tần quốc. Xin vua Tần phái người đến Triệu làm con tin, ta lập tức ra lời hiệu triệu, nghiêm cấm xuất binh và thương thảo giúp Hàn”.
Triệu Khôi Tử suy đi tính lại, thấy tốt hơn cả là nhân lúc Triệu vương chưa ra lời hiệu triệu, đang đêm xuất phát, vận chuyển số lương thực mà hắn cùng Lã Bất Vi đã mua về Dương Địch. Không muốn Bất Vi ngăn cản, tự mình điều hơn ba mươi chiếc xe ngựa, chất đầy lương thực, cùng Triệu Thành lặng lẽ đi trong đêm. Ba mươi chiếc xe ngựa lộp cộp đi trong đêm thanh vắng, giữa trời khuya lặng lẽ ở thành Hàm Đan nghe như quỷ hồn kêu hú làm cho người ta kinh khiếp ớn lạnh.
Lã Bất Vi biết nỗi sợ hãi bắt nguồn từ lời hiệu triệu của Triệu vương. Buổi trưa sau hai ngày, Bất Vi đã tin đích xác vào lệnh của vua Triệu, vội vã đến nhà của Triệu Khôi Tử. Bất Vi nhớ rõ, nắng ngập trên đường phố, từng tia từng tia như muôn ngàn ánh kim ngân nhảy nhót trước mặt. Trong ánh sáng huy hoàng ấy, bóng người ngựa dường như nhạt nhoà, mờ ảo.
Lã Bất Vi đến phủ của Triệu Khôi Tử, bị ánh mặt trời chiếu chói mắt cảm thấy xung quanh tối tăm mù mịt. Lã Bất Vi nhắm mắt, lắc đầu mấy cái sắc diện mới trở lại bình thường.
Nghe nói Triệu Khôi Tử đang đêm chuyển lương về nước Hàn, toàn thân như bị sốc nặng. Lã Bất Vi thấy như có muôn vàn con sóng lớn nhấn chìm mình xuống đáy sâu. Bất Vi sợ hãi, hoảng hốt, tim đập thình thịch. Kháng chỉ, tội phải rơi đầu, hắn lo cho tính mạng của nhà Triệu Khôi Tử, nghĩ tới mạng mình mà toát mồ hôi lo sợ.
Bất Vi hiểu rõ rằng bằng chứng về việc kháng chỉ giữa Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử nằm trong Triệu phủ.
Đó là nửa phiến tễ nằm trong tay Triệu Khôi Tử là hợp đồng ký giữa Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, cái làm bằng chứng được sử dụng phổ thông nhất là khoán. Có loại khoán ngắn, khoán dài, loại khoán dài dùng trong các vụ mua bán nhỏ gọi là Tễ. Sách “Chất Nhân - Chu Lễ” có ghi:
“Phố lớn dùng Chất, phố nhỏ dùng Tễ”, nếu sau này phát sinh ra việc tranh chấp hoặc kiện tụng, quan phủ sẽ căn cứ vào Tễ, Chất để xử án. Chính Như - Chu Lễ, Tiểu Tề nói: “Trong bán buôn lấy Tễ, Chất”. Để tiện cho việc mua bán, người ta thườn dùng khoán. Cho dù trong trao đổi dùng Tễ, Chất hay Khoán, tất cả đều làm bằng thẻ tre. Đầu tiên họ viết hợp đồng hay các điều khoản lên thẻ, sau đó phân làm hai, người mua hoặc uỷ thác giữ nửa phải, người bán hoặc uỷ thác cầm nửa trái. Người mua hoặc uỷ thác cầm khoán phải yêu cầu người bán hoặc uỷ thác thực hiện hợp đồng, nên gọi là “cầm mảnh khoán làm chất”. Người mua và người bán thỏa thuận các điều khoản và lợi tức gọi là “hợp khoán”. Nếu hai bên xảy ra tranh chấp hoặc kiện tụng, hai bên cầm “hợp khoán” đến quan phủ.
Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử cùng ăn chia trong vụ buôn bán lương thực này, nên mỗi người cầm một nửa thẻ Chất. Quan phủ, xem một nửa thẻ Chất, sẽ biết được tên họ hai bên, số lượng, mức tiền mua bán... Nếu Triệu Khôi Tử bại lộ, quan phủ đến Triệu gia điều tra, tìm được thẻ Chất còn lại, sẽ tìm hiểu ngọn nguồn và cả Lã Bất Vi cũng phải vào ngục. Mới nghĩ đến đây, Bất Vi cảm thấy như ớn lạnh xương sống.
Làm thế nào đây? Tuân theo số trời? Thúc thủ chờ đợi? Bất Vi trong vườn hoa của Triệu gia thẫn thờ tự hỏi, lập tức Lã Bất Vi trấn tĩnh lại, không thể chờ ông trời tự sắp đặt hay buông tay chịu trói. Còn nước còn tát, phải tự cứu lấy mình. Lã Bất Vi nghĩ ra ngay một cách đối phó, lập tức quay về phủ, cầm mảnh Chất phải, rồi vội vã đến phủ họ Triệu, gặp Triệu Cơ nói hiện tại quan phủ đang xem xét vụ buôn bán, cần phải “hợp khoán”, mau tìm mảnh còn lại ghép với thẻ Chất phải của Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi nhìn thấy đôi mắt đẹp của Triệu Cơ thoáng sợ hãi khi nghe nói xong, Triệu Cơ cùng Lã Bất Vi vào phòng ngủ của Triệu Khôi Tử tìm thẻ Chất. Triệu Cơ để Lã Bất Vi ngồi bên ngoài rồi vào phòng lấy ra một chiếc hộp khảm sừng tinh xảo, lấy ra từng chiếc thẻ Chất, xem qua mười mấy chiếc, vẫn không có chiếc nào hợp được với thẻ của Lã Bất Vi.
Bất Vi vô cùng hoảng hốt, tại sao lại không có? Vì Triệu Cơ cố ý không hợp khoán với Bất Vi hay Triệu Khôi Tử còn để ở chỗ nào khác?
Triệu Cơ rất lo sợ, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, Bất Vi quan sát sắc diện của nàng, biết không phải Triệu Cơ cố tình đùa giỡn. Bất Vi nhẹ nhàng nói: “Cô cố nghĩ lại xem, lệnh tôn có để thẻ ở chỗ nào khác không?”
Triệu Cơ khẽ lắc đầu.
Lã Bất Vi và Triệu Cơ lục tung cả phòng trong phòng ngoài vẫn không tìm thấy mảnh thẻ còn lại.
Vợ Bất Vi là Hoàng Phủ Kiều thấy chồng đờ đẫn cầm mảnh thẻ về phủ, lúc đó ánh trăng bị che lấp bởi những đám mây lớn âm u, Hoàng Phủ Kiều cảm thấy sắc diện của Lã Bất Vi cũng leo lét như ánh trăng trời.
Đi khá lâu mới nhìn thấy phong đài và cờ xí bay trên thành Biên Ấp, trong ánh hoàng hôn, đoàn xe ngựa lại càng nhạt nhoà. Triệu Khôi Tử thúc giục đoàn tùy tùng đi, đi liền không ngủ hai ngày hai đêm, cuối cùng cũng tới được biên giới nước Triệu và Hàn. Trên đường họ nghe nói chiếu lệnh của Triệu vương đã ban truyền nhưng không hiểu tại sao vẫn chưa tới đây.
Tại một nơi cách Biên Ấp khá xa, Triệu Khôi Tử bảo gia nhân dừng lại, đem lương thực giấu trong rừng, rồi cùng Triệu Thành và hai người gia nhân, cầm vàng bạc và dao hộ thân. Hắn muốn vào xem xét tình hình trong thành, tùy cơ mà liệu việc. Có thể qua được thì qua, không qua được thì cũng có đường thoát thân.
Bốn người nhân lúc nhá nhem, tìm đường vào thành. Khi vào thành, họ bị hai người lính gọi lại, ba lần bảy lượt hỏi họ vào thành làm gì, họ nói là thương nhân nước Triệu. Triệu Khôi Tử vừa nói vừa quan sát. Dưới chân thành, gươm kích chất thành đống, ánh sáng chói loà
Người lính hỏi bọn họ làm gì, họ đáp tới nước Hàn, lại hỏi có giấy phép qua thành không, họ trả lời có.
Lời qua tiếng lại, họ càng gần bọn lính hơn. Họ thấy rõ sau lưng người lính là thanh kiếm sáng rợn người, lại còn nhìn thấy một trong hai người bị khuyết chiếc răng cửa, có những âm thanh vang gọn từ xa vọng lại. Khôi Tử nhìn thấy có bốn tên lính quay lưng đứng bậy ở góc thành.
Hai tên lính nhanh chóng đi lấy những ống lương khô và dao kiếm của họ.
Triệu Khôi Tử hỏi: “Sao anh lấy lương khô của chúng tôi? Từ nửa đường chúng tôi đã đói lắm rồi?” Tên lính đáp: “Đại vương có lệnh, một hạt gạo cũng không được mang khỏi đất nước”. Triệu Khôi Tử nói: “KHông thể bao gồm cả lương thực mang đi ăn đường của thương nhân được”. Tên lính nói: “Cũng không từ, chúng tôi thấy lương là bắt lại”. Triệu Khôi Tử làm bộ thở dài: “Ngay cả lương ăn cũng không có, chúng ta đi làm gì, chúng ta quay về thôi”.
Khôi Tử cố nhìn lần nữa, trong thành tổng cộng có mười mấy tên lính. Lúc quay về, Triệu Khôi Tử không đi đường lớn mà vòng vào đường rừng. Thấy xung quanh thành ấp rất bằng phẳng, có thể đánh xe ngựa đi, tránh được sự kiểm soát của quan binh.
Về tới chỗ túc, Triệu Khôi Tử sai người bọc cỏ xung quanh có dao hộ thân, nguỵ trang xe lương, bọc vải vào móng ngựa, chuẩn bị nửa đêm sẽ qua biên giới. Trời khuya, Khôi Tử và Triệu Thành mỗi người mang một con dao, dẫn đầu đoàn xuất phát, ba mươi chiếc xe lặng lẽ không một tiếng động, ra đi trong đêm tối mịt mùng.
Xung quanh vô cùng yên tĩnh, thỉnh thoảng mới nghe tiếng thở phì phò của ngựa kéo xe. Gió mơn man lướt nhẹ trên mặt. Thảo nguyên bao la chan hòa ánh trăng.
Đoàn xe lương của Triệu Khôi Tử chưa đi xa thì bị quân tuần canh bắt gặp. Ngay lập tức, trong thành, những bó đuốc được thắp sáng, tiếng hò hét vang vọng bốn phương, quân đội nhất tề chuẩn bị xuất phát. Khôi Tử huy động cả mấy tay dao, không ngừng hô hào: “Không được lo lắng, không được cuống”. Rồi bảo gia nhân dừng ngựa, vạn nan cũng không được nản lòng, chuẩn bị nghênh chiến.
Quân đội mau chóng ập tới, lửa sáng lập loè, chiếu rõ mặt Triệu Khôi Tử và bọn gia nhân. Bọn lính hiểu ngay chuyện gì xảy ra, chỉ gươm hô giết. Một trận quyết chiến bùng nổ, Khôi Tử và bọn gia nhân chỉ có dao ngắn không thể chống lại gươm sắc kích dài của binh lính nhanh chóng thiệt mạng.
Tiếng vó ngựa dập dồn phi nhanh về hướng Hàm Đan. Bụi cuốn mù mịt che khuất cả mặt trời, cảnh tượng giống như đang xảy ra đám cháy lớn. Mọi người ngó ra cửa xem xét, biết đã xảy ra chuyện kinh thiên động địa gì.
Lát sau có tin rằng Triệu Khôi Tử chở lương chống lại lệnh chỉ, người bị giết, lương thảo bị tịch thu, quan quân đang ập tới đây để niêm phong tài sản, bắt hết người trong nhà, nô lệ, tì thiếp.
Nghe tin, Lã Bất Vi đang ngồi uống trà trong phủ giật mình kinh hãi, chén trà rơi xuống đất, vỡ tan tành.
Lã Bất Vi và mấy người tâm phúc biết rằng, nếu thẻ Chất - bản giao kèo buôn bán giữa Triệu Khôi Tử và Lã Bất Vi lọt vào tay quan quân có nghĩa là Bất Vi sẽ xếp vào hạng đầy phạm phải chịu tội cùng Triệu Khôi Tử. Mọi người nhất loạt khuyên Lã Bất Vi đi trốn vài ngày. Đợi tin tức xác thực, họ sẽ báo cho Lã Bất Vi. Lã Bất Vi cùng Hoàng Phủ Kiều đành nhân lúc trời tối ra miếu từ ngoài thành ẩn thân lánh nạn. Trước khi đi còn mang theo nhiều vàng ngọc châu báu, e sợ quan binh truy tìm gốc sẽ tịch biên gia sản, đưa tiền cho mấy người tâm phúc lo lót cho quan binh.
Trời sáng, Lã Bất Vi cùng Hoàng Phủ Kiều vừa đói vừa mệt, lại nơm nớp lo sợ, ngọn cỏ rung cũng thon thót giật mình. Mặt trời xuống núi, trời chạng vạng tối mới có người mang thức ăn tới. Lã Bất Vi sống ở đó, đếm thời gian dằng dặc trôi qua, hai ngày hai đêm sau mới một người tâm phúc của gia đình kể, trong nhà của Triệu Khôi Tử không phát hiện được tấm thẻ tre, làm Lã Bất Vi áy náy băn khoăn.
Khi Lã Bất Vi đầu bù tóc rối, thất thểu quay về, ngồi yên trong phủ hàn huyên cùng môn khách và gia nhân nhưng trong đầu vẫn đè nặng hình ảnh tấm thẻ tre.
Bất Vi mơ hồ nhận thấy rằng dường như thần linh đã lấy đi tấm thẻ nếu không tấm thẻ ấy có thể ở nơi nào...

Xem tiếp Chương 5 Con tin Dị Nhân
Về Đầu Trang Go down
xuanha242
Thành viên lớp
Thành viên lớp
xuanha242


Tổng số bài gửi : 70
Join date : 13/04/2010
Age : 32
Đến từ : Tam Lộc

Lã Bất Vi Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lã Bất Vi   Lã Bất Vi Icon_minitimeSat Apr 17, 2010 2:15 pm

Hàn Diệu Kỳ

Chương 5 Con tin Dị Nhân


Hàm Dương, thành đô nước Tần. Đây là thành ấp bắt đầu được xây dựng vào năm mười hai đời Tần Hiếu công. Vì phía Nam có núi Ly Sơn, phía Bắc có sông Vị Thủy, núi nước đều hướng về phía mặt trời nên tên cổ gọi là: “Hàm Dương”. Chữ Hàm có nghĩa là đô thành, là đều tất cả.
Nước Tần đã định đô ở đất Ung và Lạc Dương nhưng vị trí và quy mô đô thành không thể sánh nổi với Hàm Dương. Hàm Dương gần sông Vị Thủy. Những con đường lớn trải dài dọc theo hai bờ Đông - Tây. Một dòng nước xanh mềm mại chảy uốn quanh trong thành phố. Men theo bờ sông là những tòa vương phủ nguy nga và nhà cửa san sát của dân thường. Mấy con đường lớn phân thành phố thành những khu đối xứng như khu nhà của các quan, của dân và khu chợ. Người Tần làm nông nghiệp, lấy pháp luật trị quốc. Cảnh tú ở Hàm Dương cũng thể hiện rõ điều này. Ta thường nhìn thấy nam nữ Tần ăn mặc giản dị, vác cày cuốc đi trên đường. Trong chợ, ngoài những sản vật của sáu nước xunh quanh, nhiều nhất là trâu bò béo tốt phục vụ cho nghề nông, rồi gà chọi, chó săn, gia súc gia cầm, trống kèn, đàn sáo rất ồn ào náo nhiệt, không hề giống như Hàm Đan, Lâm Tri, Bộc Dương hay Dương Địch. Con gái trang điểm nhẹ nhàng, cử chỉ khỏe khoắn khác hẳn với vẻ tô son điểm phấn, phiêu du thanh thoát như con gái nước Triệu. Trên đường, người ngựa đi lại tấp nập, đan xen như mắc cửi. Hai bên đường là vô số những cửa hàng, quán trọ, hàng trà, tiểu lầu, khách điếm... đây thường là nơi tập trung của thương nhân, người từ nước khác đến.
Trong toàn thành Hàm Dương, Chương Thái cung nguy nga hoành tráng hơn cả. Chiêu Tương vương Doanh Tắc văn võ song toàn, đến hơn sáu mươi tuổi mà đã già nua ốm yếu. Mỗi lúc lâm triều, khệ nệ bưng chiếc đai lưng khảm thiều châu ngọc lung linh. Trong các vua nước Tần, đây là vị vua sống lâu và nắm quyền binh dài nhất. Nắm quyền chấp chính đã năm mươi sáu năm mà đến bảy mươi tư tuổi vẫn chưa đành lòng xuôi về nơi an nghỉ.
Người hầu trong cung Hiếu Văn vương Trang Tương vương đều nhớ rõ hình ảnh Chiêu Tương vương trai tráng anh hùng hoạt bát như thế nào.
Vương trưởng thành cao lớn đường bệ, tiếng nói sang sảng như chuông. Mỗi lần cầm quân đánh giặc trở về, không biết mệt mỏi vẫn luyện tập cung nỏ, mũi tên bắn ra bách phát bách trúng. Tiếp đãi chư hầu, có thể uống liền hơn mười vò rượu không say. Chốn hậu cung, đêm đêm có thể ngự lãm một lúc vài thiếu nữ. Sau cuộc mây mưa, ai cũng khai hoa nở nhuỵ.
Thế nhưng hôm nay lại khác hẳn, Chiêu Tương vương đang cảm thấy lực bất tòng tâm. Trước mắt vương đang khó xử bởi việc phái con tin đến nước Triệu. Ông có hai mươi ba đứa cháu có thể thoải mái chọn lựa nhưng phái ai đi đến Triệu thật khiến ông đứng ngồi không yên, suốt đêm không ngủ.
Con tin trước thời Xuân Thu dùng làm vật tin lấy lòng quỷ thần. Khi Chu Vũ vương bị ốm, Chu Công Đản phụ tá của Vũ Vương lập đàn tế trời cầu mong cho Thiên tử khỏi bệnh rồi lấy mình làm vật tín. Nhưng đem người làm con tin giữa các nước chỉ bắt đầu từ thời Chu thiên tử, Vương muốn giữ chữ tín với Trịnh Vũ công, đã phái con mình sang nước Trịnh làm tin. Lần trao đổi với nước Trịnh ấy đã làm cơ sở cho việc làm con tin giữa các nước chư hầu thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Thời Xuân Thu, các chư hầu rất trọng chữ tín, việc đổi người không nhiều, con tin ở các nước rất an toàn, không có gì nguy hiểm. Nhưng đến thời Chiến Quốc, chư hầu luôn bội tín, nhân nghĩa đức tín chỉ như gió thoảng mây bay. Vì thế, việc phái con tin ngày càng nhiều, con tin đến nước chư hầu đều rất nguy hiểm. Người làm con tin có thể là Thái tử hoặc Công tử, cũng có cháu của vua hoặc quan đại thần. Những người này khi ở trong nước đều được tôn kính, sống giàu có sung sướng, liệu ai can tâm đến nước khác mà hứng lấy gian khổ hiểm nguy? Vì thế họ đều xem việc đi làm con tin như một đại hoạ, tất cả đều sợ hãi như thú bị dồn tới bước đường cùng.
Phái đứa cháu nào đến nước Triệu làm tin đây? Chiêu Tương vương sau khi thao thức mấy đêm liền gọi Thái tử An quốc dân Doanh Trụ đến trước điện, nghiêm giọng nói: “Ngô nhi, nước Triệu đã đồng ý với phụ vương không kết giao với Hàn, không phụ giúp lương thảo, binh khí nhưng tất nhiên phải có điều kiện, phái một vương tôn đến Hàm Đan, con hãy chọn trong số hơn hai mươi nhi tử lấy một người đến đó”.
Đây là vấn đề khó khăn, Doanh Trụ không đồng ý với quyết định này liền tìm cớ thoái thác: “Đây là chuyện lớn, xin phụ vương nghĩ kỹ lại”. Nghe con nói như vậy, Chiêu Tương vương sa sầm nét mặt nói: “Ta đến tuổi xưa nay hiếm, sắp đến lúc sức tàn lực kiệt, không bao lâu nữa sẽ nhường ngôi cho con, con cũng nên quen dần với việc triều chính, xử lý đối đáp việc chính sự trong ngoài, không nên lúc nào cũng đắm mình trong đam mê tửu sắc”.
Doanh Trụ ấm ức nhìn Chiêu Tương vương trong lòng tự nhủ: “Con đã cao tuổi như thế này, chẳng có việc gì làm, không tìm khoái lạc chốn hậu cung thì biết làm việc gì?”
Doanh Trụ ấm ức, không nghe. Chiêu Vương thái tử không phải là Doanh Trụ mà là Doanh Diệu. Doanh Diệu sức khỏe ốm đau, sớm yểu mệnh nên Doanh Trụ được lập làm Thái tử. Có một chút tài năng Doanh Trụ muốn đem ra thi thố, đăng vị ngôi báu, trị sự quốc gia. Nhưng Chiêu Tương vương tuổi cao song sức còn tráng kiện, Doanh Trụ đã hơn 40 mà Chiêu Tương vương vẫn còn trong cung Chương Thái phê chuẩn tấu biểu, tiếp đãi sứ giả. Thái tử nước khác đến tuổi này đã tự mình nắm giữ ngôi cao vậy mà Doanh Trụ đã qua tuổi “bất hoặc” (không mê muội) mà Chiêu vương vẫn không có dấu hiệu của tuổi già. Doanh Trụ biết cái ngày đăng đài của mình còn quá xa vời, đành đắm mình trong truỵ lạc với đám cung nhân, trong hậu cung có không biết bao nhiêu mỹ nữ đã qua tay Doanh Trụ. Thái giám và kẻ hầu trong hậu cung biết rằng, ngay cả bậc đá hay ngọn đèn cũng quen thuộc bước chân Doanh Trụ. Doanh Trụ có 23 con trai, 20 con gái, từ đám con đông đảo ấy có thể tưởng tượng được thời gian và công sức mà Doanh Trụ dành cho hậu cung là lớn như thế nào.
Chiêu Tương vương nhìn thấy Doanh Trụ có vẻ chần chừ liền hối thúc: “Chuyện này gấp lắm rồi, con phải mau chóng quyết định đi!” Doanh Trụ liếc nhìn Chiêu vương hỏi: “Thế phụ vương định chọn ai?” Chiêu vương khoát tay nôn nóng: “Con tự quyết định đi, chọn ai báo cho ta một tiếng!”
Thấy phụ vương có vẻ bực bội, Doanh Trụ vội vã cáo từ, quay về Loan Minh, nơi có phu nhân Hoa Dương yêu dấu của mình.
Lúc đó, Hoa Dương phu nhân cùng với anh là Hoa Dương quân đang nóng lòng chờ Doanh Trụ quay lại. Hoa Dương còn sai người hầu là Tiểu Song ra tận cửa đón trông. Vì gần đây nước Tần đánh nhau với nước Sở, thu được Kinh Thành. Kinh Thành là đất phồn hoa, rất nhiều công tử vương tôn muốn Kinh Thành là thực ấp của mình. Hoa Dương quân qua em mình muốn xin Chiêu Tương vương ban cho Kinh Thành làm thực ấp. Vừa ngồi nói chuyện với Doanh Trụ và chị em Hoa Dương thì có người đến báo Chiêu vương cho triệu Thái tử. Chị em Hoa Dương nhân cơ hội, càng cố xúi giục Doanh Trụ nói xin Chiêu Tương vương.
Trong đám cung nga nơi hậu điện, Doanh Trụ sủng ái nhất là Hoa Dương phu nhân. Nàng chưa đầy 30 tuổi, có sắc đẹp lộng lẫy. Dáng người yểu điệu, da trắng như ngà ngọc. Nét mày như liễu, đôi mắt hồ thu hút hồn người khác. Gò má cao ửng hồng như trái đào chín mọng, gợi bao vẻ xuân tình. Nàng có thể chiếm vị trí số một trong cung vàng không chỉ vì là mỹ nhân khuynh quốc, nàng còn là cháu gái của Tuyên Thái hậu. Tuyên Thái hậu vốn là người nước Sở, tên là Mễ Bát Tử. Tuy không là chính cung Hoàng hậu của Huệ Văn vương nhưng vì sinh hạ ra Chiêu vương Doanh Tắc mà được hiển quý. Sau khi Huệ Văn vương chết, Doanh Tắc còn nhỏ nên Thái hậu nhiếp chính. Lúc bà nắm quyền mười mấy năm, họ Mễ trở thành đại gia có thế lực trong triều. Ngụy Nhiễm làm Tướng quốc, hai anh em khác cũng được phong hầu bái tướng. Cho dù sau này Thái hậu bị phế truất, Ngụy Nhiễm bị bãi chức thì họ Mễ vẫn có ảnh hưởng không thể thay thế trong vương triều Tần.
Hoa Dương phu nhân sau khi trở thành Thái tử Phi thì anh là Dương Hoa Quân cũng được thơm lây, trở thành tướng quân thống soái mười mấy vạn đại quân.
Thấy Doanh Trụ thẫn thờ trở về, anh em Hoa Dương đồng thanh hỏi: “Thế nào, Đại vương ngài có đồng ý không?”
Doanh Trụ thở dài nói: “Việc xin kinh thành làm lạc ấp của Hoa Dương quân, ta chưa có cơ hội nói với phụ vương”.
Hoa Dương phu nhân hỏi: “Thế phụ vương năm lần bảy lượt triệu kiến ngài có việc gì thế?”
Doanh Trụ nói: “Mọi người đều biết ta với nước Hàn giao chiến, phụ vương sợ Hàn Triệu liên minh, không muốn Triệu giúp Hàn binh khí, lương thực, Triệu vốn đồng ý nhưng muốn ta phải phái người đến Triệu làm con tin”.
“Thế Đại vương bảo ai?” Hoa Dương quân hỏi.
“Muốn bảo ai thì người ấy đi”. Hoa Dương phu nhân nói thờ ơ.
Cho dù Thái tử suốt ngày quanh quẩn bên nàng nhưng Hoa Dương phu nhân vẫn giữ được dáng người thon gọn. Vì chưa có con nên giọng Hoa Dương rất lạnh nhạt.
Doanh Trụ nghe Hoa Dương liền nói: “Phái ai đi? Nàng bảo ai cũng được?”
Hoa Dương phu nhân mặt lạnh như tiền, cười nhạt: “Thiếp không phải là phụ vương, làm sao dám nói ai đi hay không? Thiếp bảo Thái tử điện hạ đi, bảo Hoa Dương quân đi, bảo Tiểu Song đi?” Nói xong, Hoa Dương phu nhân đưa mắt nhìn mọi người.
Doanh Trụ vội nói: “Phụ vương bảo ta tìm một nhi tử. Bảo ta quyết cũng không phải là bảo nàng quyết hay sao?”
Hoa Dương phu nhân và Hoa Dương quân kinh ngạc thốt lên: “Cho Thái tử điện hạ quyết định à?”
Doanh Trụ nói : “Đúng vậy”
Hoa Dương phu nhân đảo mắt nhìn quanh rồi bảo nữ tỳ Tiểu Song: “Ngươi ra ngoài trước đi!”
Tiểu Song đáp dạ, lui ra.
Hoa Dương phu nhân và Hoa Dương quân đưa mắt nhìn nhau rồi nói: “Thái tử điện hạ, người xem nên phái công tử nào đi”.
Doanh Trụ nói: “Ta cũng chưa có chủ ý”.
Hoa Dương phu nhân mượn dịp nói: “Thế thì chọn con cả của ngài là Tử Hề đi, nó không muốn làm Thái tử sao? Đây là lúc tạo tiền đề vì nước mà hiến thân!”
Hoa Dương quân cũng tiếp lời: “Phạm Thư, Đỗ Thương hay đưa chuyện, có gì không hay lại sai Từ Hề đi gặp Đại vương, để Từ Hề đi, xem hai người ấy còn chọc gậy bánh xe nữa không”.
Phạm Thư là Tướng quốc. Đỗ Thương cũng đảm nhiệm chức trọng thần, lại là thầy dạy của Tử Hề - con trưởng của Doanh Trụ. Một mặt họ gia sức hạn chế quyền lực của gia tộc họ Mễ, một mặt nỗ lực cho việc lập Tử Hề làm Thái tử, trở thành người kế vị của Doanh Trụ. Vì thế chị em Hoa Dương với họ không thể đội trời chung.
Doanh Trụ hiểu rõ là chuyện trong cung có quan hệ rất phức tạp, tuy Vương sủng ái Hoa Dương nhưng cũng không muốn gây thù oán với Phạm Thư, Đỗ Thương.
Hoa Dương phu nhân lại càng hối thúc: “Thái tử điện hạ, người quyết định cho Từ Hề đi, vì quốc gia mà đứng mũi chịu sào, đảm nhiệm trọng trách này!”
Hoa Dương quân cũng nói: “Thái tử điện hạ, đây cũng là lý do chính đáng để công bố giữa triều chính”.
Doanh Trụ chần chừ nói: “Để ta xem xét kỹ!”
Bóng hình nhỏ nhắn của Tiểu Song trong đêm như tấm lụa mỏng lặng lẽ đi về hướng phủ Tướng quốc.
Hoa Dương phu nhân bảo Tiểu Song lui nhưng cô gái xinh đẹp này thực ra không quay gót, cô nép ở cửa nghe trọn câu chuyện của Doanh Trụ và chị em Hoa Dương. Nhớ lại ban đầu, Tiểu Song vốn là người nước Sở bị bắt sang Tần làm nô tỳ, phải làm công việc phục dịch quét dọn trong cung vô cùng cực khổ. Một lần, Tướng quốc Phạm Thư thấy cô gái nhỏ nhắn xinh đẹp làm việc vất vả, bèn động lòng thương gọi cô đến và nói: “Còn nhỏ như cô mà phải kiếm sống khổ cực, cô tên là gì?” Tiểu Song quỳ xuống thi lễ rồi kể cho Phạm Thư nghe về thân phận của mình. Phạm Thư nói: “Từ nay cô không phải làm công việc khổ cực như thế nữa, hãy đến cung Thái tử phi làm người hầu ở đó!” Tiểu Song vô vàn cảm tạ chịu ơn, Phạm Thư dặn dò: “Ở cung Thái tử phi nghe hoặc nhìn thấy việc gì lạ, lập tức bí mật đến phủ Tướng quốc báo ngay cho ta”. Tiểu Song tâm niệm ghi nhớ, cô biết việc gì cần gấp rút báo với Phạm Thư. Tiểu Song đến Loan Minh Các, lúc đầu chỉ ở vườn hoa, chăm sóc cây cỏ, nhưng vì chịu khó lại nhanh nhẹn nên sớm được Hoa Dương để ý và cho vào cung làm người hầu tâm phúc của mình.
Tiểu Song đến phủ Tướng quốc, mau chóng đến thư phòng gặp Phạm Thư đang ngồi đọc sách.
Vị Tướng quốc nước Tần quyền cao chức trọng, râu tóc đã điểm bạc, mắt hằn nét chân chim. Nghe Tiểu Song nói, thốt lên một tiếng “À”. Xem qua thì biết đây là người đầy mưu sâu kế hiểm. Ông bảo người nhà mang vài lạng bạc tới thưởng cho Tiểu Song và nói: “Mau về đi!”.
Tiểu Song đi khỏi, ông không kịp mặc quan phục, một mình một ngựa đi đến Tử Hề.
Phạm Thư vốn là người nước Ngụy, thông hiểu thi thơ lễ nhạc, chí lớn ngút trời. Phạm Thư đi du thuyết ở các nước chư hầu, ý muốn giúp việc cho vua Ngụy nhưng vì nhà nghèo, không có gì để làm vốn đành phải giúp việc cho trung đại phu nước Ngụy - Tu Giả.
Một lần Tu Giả vâng lệnh Ngụy Chiêu vương đi sứ nước Tề, Phạm Thư cũng đi theo. Hai người ở Tề mấy tháng vẫn không có kết quả gì. Vua Tề vương nghe nói Phạm Thư có tài biện luận, bèn sai người biếu 10 cân vàng cùng thịt bò và rượu. Thư từ chối không dám nhận. Tu Giả biết được giận lắm, cho rằng Thư được những tặng phẩm ấy là đem những điều bí mật của nước Ngụy nói ra với Tề nên sai Thư nhận rượu, thịt và đem vàng trả lại. Sau khi về nước, Giả giận Thư nên đem nói với Tướng quốc nước Ngụy là Ngụy Tề. Ngụy Tề cả giận, sai môn hạ lấy roi đánh Thư. Đánh gãy xương sườn, rụng răng. Thư giả vờ chết, bị người ta lấy chiếu bó lại bỏ trong nhà xí. Khách uống rượu thịt no say, thi nhau đái lên người Thư, cốt làm nhục Thư để răn dạy những người sau đừng nói bừa bãi.
Thư nằm trong chiếu nói với người giữ nhà xí: “Nếu ông có thể đưa tôi ra thì thế nào tôi cũng hậu tạ”.
Người nước Ngụy là Trịnh An Bành biết Phạm Thư là người có tài bèn cứu. Phạm Thư chạy trốn rồi đổi tên là Trương Lộc. Lúc bấy giờ Tần Chiêu vương sai người yết giả là Vương Kê sang Ngụy, Trịnh An Bành giả làm lính hầu hạ Vương Kê, tiến cử Phạm Thư. Vương Kê nhìn thấy Phạm Thư nói chưa hết buổi, biết Phạm Thư là người giỏi. Sau khi quay về Hàm Đan tiến cử với Tần Chiêu Tương vương, vua Tần gặp Phạm Thư cùng nhau bàn chuyện thiên hạ, thấy Phạm Thư là người mưu lược tài giỏi, phong ông làm Tướng quốc, Phạm Thư sau khi thành Tướng quốc, hoạch định chính sách, chiến lược trị quốc, tăng cường luật pháp làm cho nước Tần ngày càng trở thành hùng mạnh.
Phạm Thư làm Tướng quốc vẫn lấy tên là Trương Lộc. Nước Ngụy không biết cho rằng Phạm Thư đã chết từ lâu. Vua Ngụy nghe tin vua Tần đem quân sang đánh hai nước Hàn Ngụy, sai Tu Giả đến nước Tần cầu hoà. Phạm Thư nghe vậy, cải trang mặc quần áo lam lũ, đi bộ đến nhà khách yết kiến Tu Giả. Giả thấy Thư liền kinh ngạc hỏi: “Phạm Thư, ngươi vẫn chưa chết sao?” Phạm Thư đáp: “Phải!” Tu Giả cười hỏi: “Ngươi đến nước Tần làm thuyết khách phải không?” - “Thưa không. Trước đây Thư có tội với Tướng quốc nước Ngụy, cho nên bỏ trốn đến đây, đâu dám làm thuyết khách?” “Nay ông làm việc gì?” “Tôi làm thuê cho người ta”. Tu Giả trong lòng thương hại, giữ lại cùng ăn cơm và nói: “Ngươi có biết Tướng quốc nước Tần là Trương Lộc không? Nghe nói ông ta được nhà vua yêu quý, việc trong thiên hạ đều do thừa tướng quyết định. Nay việc của tôi phụ thuộc vào Trương quân. Ngươi giúp ta gặp Tướng quốc được không?”
Phạm Thư nói: “Ông chủ của tôi quen biết ông ta nên tôi có thể bái yết. Thư này xin giúp ông gặp Trương quân”.
Phạm Thư về lấy xe tứ mã đưa cho Tu Giả, đánh xe đưa vào tướng phủ. Trong phủ mọi người nhìn thấy Tướng quốc đều ẩn nấp, trốn lánh. Tu Giả thấy làm lạ. Đến cửa nhà thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả: “Ông chờ một lát để tôi vào báo trước”.
Tu Giả ngồi ngoài đợi hồi lâu vẫn không thấy Phạm Thư bèn hỏi người môn hạ: “Phạm Thư không ra là tại sao?”. Người môn hạ nói: “Không có ai là Phạm Thư cả. Người mà ông cùng đi xe là Tướng quốc Trương Lộc của chúng tôi”.
Tu Giả cả kinh biết mình bị lừa, bèn cởi trần đi bằng đầu gối, nhờ người môn hạ vào xin tha tội. Bấy giờ Phạm Thư bày màn trướng nghiêm chỉnh, kẻ hầu người hạ rất đông, Tu Giả cúi đầu nói: “Tôi không ngờ ngài có thể tự mình lên tới mây xanh. Tôi phạm tội đáng chết. Từ nay không dám đọc sách thiên hạ, bàn việc thiên hạ nữa. Giả có tội phải bỏ vào vạc nước sôi, cúi xin ngài đuổi đến nơi man rợ, sống chết tùy ngài định đoạt”.
Phạm Thư không giết Tu Giả, đem chuyện kể với vua Tần, xin thả Giả về Ngụy quốc. Tu Giả tới từ biệt Phạm Thư, Phạm Thư bày tiệc lớn, mời sứ giả các nước chư hầu đến dự. Bắt Tu Giả ngồi dưới thềm, sai người đặt máng ngựa ăn trước mặt, sai hai tội nhân bị chạm vào mặt đứng hai bên, cảnh tượng y như người ta cho ngựa ăn vậy.
Phạm Thư nói với Tu Giả: “Ngươi về quê nói với vua Ngụy, mau mang đầu Ngụy Tề tới đây. Nếu không ta sẽ làm cỏ thành Đại Lương”.
Tu Giả trở về báo với Ngụy Tề. Ngụy Tề sợ hãi, trốn đến nước Triệu, ở nhờ Bình Nguyên quân.
Tần Chiêu vương biết chuyện, muốn báo thù cho Phạm Thư, giả vờ viết một bức thư đưa cho Bình Nguyên quân: “Quả nhân biết ngài là người cao nghĩa, muốn ngài làm bạn áo vải, nếu may mắn được ngài tới, xin uống rượu với ngài mười ngày”.
Bình Nguyên quân sợ Tần, vả lại cũng cho là phải bèn đến Tần yết kiến Chiêu vương. Chiêu vương cùng Bình Nguyên quân uống rượu mấy ngày rồi nói với Bình Nguyên quân: “Xưa Chu Văn vương được Lũ Thượng cho làm Thái công. Tề Hoàn công được Quản Di ngô cho làm trọng phụ. Phạm Quân cũng là bậc thúc phụ của quả nhân, kẻ thù của thúc phụ ở nhà ngài, xin cho người về lấy đầu hắn đem lại đây, nếu không ta không cho ngài qua cửa ải!”.
Bình Nguyên quân nói: “Tuy mình sang nhưng kết bạn với người là người không quên cái nghĩa lúc mình còn thấp hèn. Tuy mình giàu nhưng chơi với người ta là không quên cái lúc mình nghèo túng. Ngụy Tề là bạn của tôi, nếu ở nhà tôi, tôi nhất định không đem ra nộp, lại rằng ông ta không ở nhà tôi”.
Chiêu vương đưa thư cho vua Triệu nói: “Em trai của nhà vua ở Tần, kẻ thù của Phạm Thư là Ngụy Tề hiện đang ở Bình Nguyên quân. Nhà vua mau sai người đem đầu hắn đến đây, nếu không ta sẽ đem binh đánh Triệu, không cho em nhà vua qua ải đâu”.
Triệu Hiếu Thành vương xem xong thư cả kinh, đem binh lính đến vây nhà Bình Nguyên quân rất gấp, đang đêm Ngụy Tề trốn ra, ra mắt Tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Ngu Khanh xem chừng không can nổi vua, bèn cởi ấn Tướng quốc, cùng Ngụy Tề bỏ trốn. Nghĩ không thể trốn tránh ở nước chư hầu nào bèn chạy về Đại Lương muốn nhờ Tín Lăng quân để chạy sang nước Sở. Tín Lăng quân nghe tin, sợ Tần, do dự chưa quyết, bèn hỏi: “Ngu Khanh là người như thế nào?”
Hầu Doanh bên cạnh nói: “Con người không dễ biết hết. Biết người cũng không phải là dễ. Ngu Khanh đi giày rơm, mang ô đi yết kiến vua Triệu lần thứ nhất, được thưởng một đôi thạch bích, một trăm cân vàng. Lần thứ hai được phong làm Thượng khanh. Lần thứ ba được cử làm Tướng quốc, phong vạn hộ hầu. Trong thiên hạ đua nhau muốn biết ông ta. Thế mà khi Ngụy Tề cùng khốn đến nhà ông ta, Ngu Khanh không dám cho tước lộc là tôn quý, cởi ấn tướng cùng Ngụy Tề trốn chạy. Công tử, người nói xem. Ngu Khanh là người như thế nào?”
Tín Lăng quân nghe xong cả thẹn, sai người ra ngoại thành nghênh đón. Ngụy Tề nghe nói Tín Lăng quân lúc đầu ngại đón mình nên cả giận tự đâm cổ chết. Vua Triệu nghe tin, lấy đầu của Tề đưa cho vua Tần. Tần Chiêu vương cho Bình Nguyên quân về nước.
Chiêu vương rất thân cận và gần gũi với Phạm Thư, cho phép ông được đánh xe ra vào cung vương.
Tử Hề là con cả của An Quốc quân, năm nay tuổi đã trưởng thành. Tử Hề không giống kẻ phàm nhân tục tử, không dễ để người khác biết được suy nghĩ tâm sự của mình. Hình dung oai phong, hiên ngang khí phách. Vẻ ngoài luôn như ngây dại nhưng tâm trí rất sâu xa. Tuy cả ngày trong phòng đọc sách nhưng không hề hứng thú với chuyện cay đắng cuộc đời. Thi thơ lễ nhạc giúp Tử Hề hiểu rằng trong cung đình luôn xảy ra tranh đoạt tước quyền. Tử Hề cảm thấy rằng, quan tước mê hoặc con người giống như bông hoa hồng, tuy đầy sắc hương nhưng cũng lắm gai nhọn. Muốn thưởng hoa phải cầm cả hai tay, hoa mới không gây đau đớn. Tử Hề muốn sớm trở thành Thái tử của An Quốc quân, mau chóng gánh vác việc thiên hạ, lại có Tướng quốc Phạm Thư ủng hộ. Tuy nhiên bên cạnh cha luôn có người đẹp Hoa Dương sớm hôm kề cận, lời nói xúc xiểm, thêm Vũ An quân Bạch Khởi quyền cao chức trọng, tấn cử Dị Nhân trước mặt vua Tần, nói Dị Nhân trí dũng song toàn, trí tài tuyệt đỉnh, không ai sánh bằng, lại nói sợ trở thành Thái tử của An Quốc quân. Tử Hề căm giận xiết bao những con người ấy.
Người hầu trong phủ Tử Hề thấy Tướng quốc quần áo xộc xệch, tự đánh xe tới phủ, biết có chuyện chẳng lành. Đến phủ, Tướng quốc sửa sang quần áo, gấp rút vào thư phòng gặp Tử Hề. Nhìn bộ dạng Phạm Thư, Tử Hề bíêt xảy ra chuyện lớn. Phạm Thư thấy Tử Hề và thái phụ Đỗ Thương, bèn đem chuyện anh em Hoa Dương muốn Tử Hề tới nước Triệu làm con tin một lượt.
Tử Hề hỏi: “Chẳng phải vua cha không đồng ý sao?”
Phạm Thư nói: “Bây giờ An Quốc quân chưa có chủ ý gì nhưng ngài cũng biết, Hoa Dương phu nhân nói sao thì An Quốc quân theo vậy mà”. Đỗ Thương nói: “Phạm tướng quốc, ngài tiến cử với Đại vương một vương tôn khác, như vậy sẽ sớm thoát khỏi chuyện này”.
Phạm Thư nói: “Đại vương không muốn tốn công phí sức đã để cho An Quốc quân quyết định chuyện này”.
Tử Hề nói: “Để ta đi? Như thế có quá lắm không? Hai mươi ba con trai tất cả đều hưởng phúc lộc phú quý vinh hoa, tại sao lại chọn ta?”
Đỗ Thương nói: “Mọi người có thể viện lý do ngài là con trưởng”.
Tử Hề nói: “Con trưởng lớn lên làm Thái tử, lẽ nào định không cho ta được thế sao?”
Phạm Thư nói: “Tình hình này không nên oán trách hay đổ lỗi cho ai. Chúng ta nên nghĩ kế chu toàn không để Tử Hề tới Hàm Đan làm con tin nước Triệu”.
Tử Hề nói: “Tôi ăn không ngon, ngủ không yên, hay thoái thác ốm đau mấy tháng cho yên chuyện?”
Đỗ Thương lắc đầu: “Ngài cáo ốm, người ta bảo là ngài trốn tránh, sai thái y đến thăm bệnh thì vỡ lở mọi chuyện!”.
Phạm Thư đi đi lại lại trong thư phòng và hỏi: “Hôm nay là ngày bao nhiêu?” “Hôm nay là ngày 19 tháng 6, Tướng quốc không nhớ sao?” Đỗ Thương cảm thấy vì chuyện con tin đã làm cho Phạm Thư bấn loạn tâm trí. Phạm Thư bấm tay phấn khởi: “Phải, hôm nay là ngày 19, sau bảy ngày là ngày 26”.
Tử Hề và Đỗ Thương thấy vị Tướng quốc túc trí đa mưu bộ dạng như vậy biết Phạm Thư có chủ ý rõ ràng.
Phạm Thư sung sướng nói: “Ngày 26 tháng 6 là ngày sinh nhật của vua Sở là Khoảnh Tương vương. Nếu ta nhớ không nhầm, năm nay ông ta 52 tuổi. Ngày ngày 2 năm về trước, ta là sứ thần Tần quốc đến chúc thọ ông ta”.
Đỗ Thương nói: “Tướng quốc đại nhân, lúc này nước sôi lửa nóng lại còn nhớ tới ngày sinh của vua Sở hay sao? Thật là không đúng lúc chút nào!”
Phạm Thư nói: “Thái phụ, cứ theo như chuyện này, bảo Tử Hề viết thư cho Khoảnh Tương vương, nói với vua Sở rằng Tử Hề rất muốn đến chúc thọ Tương vương vào ngày 26 nhưng chưa có lời mời của Đại vương nên không dám thất lễ. Nhất định Tương vương sẽ phái người tới mời Tử Hề. Tương vương và An Quốc quân là chỗ tình thân, nhất định vì việc chúc thọ này mà phái người khác đến Hàm Đan làm con tin”.
Đỗ Thương vô cùng thán phục: “Quả là diệu kế! Tử Hề thay mặt nước Tần tới chúc thọ Tương vương, tránh việc đến Hàm Đan, thật nhất cử lưỡng tiện”.
Đỗ Thương theo kế Phạm Thư, đọc thư để Tử Hề viết đưa tới vua Sở. Ngày hôm sau bèn phái một viên Tả Đồ nắm công việc trong cung thất mang thư diện kiến Chiêu Tương vương, mời Tử Hề đến Sính Đô tham dự tiệc mừng thọ vua Sở Khoảnh Tương vương. Chiêu vương đem quốc thư của nước Sở giao cho Phạm Thư xử lý việc này.
Phạm Thư tiếp quốc thư, trong bụng mừng thầm. Sự việc đã bộc lộ rõ kết quả mà ông dự liệu. Ông cầm quốc thư, mặt mày rạng rỡ, cùng Tử Hề đến từ biệt An Quốc quân Doanh Trụ.
Doanh Trụ mấy hôm nay cùng Hoa Dương phu nhân cân nhắc xem rút cục phái công tử nào tới Hàm Đan.
Phạm Thư mang quốc thư của Sở vương đến trước mặt Doanh Trụ lắc lư nói: “Đại vương đã ân chuẩn để Tử Hề đi sứ nước Sở” Tử Hề mừng ra mặt, cúi đầu thi lễ nói: “Hài nhi cung kính từ biệt phụ vương và vương phi nương nương”. Hoa Dương phu nhân không nén nổi tình cảm hỏi: “nói như vậy, Tử Hề không thể đến Hàm Đan làm con tin được sao?”
Phạm Thư không hề giữ ý nói: “Tử Hề mang gánh nặng trên vai, không hổ với sứ mệnh, sẽ nhanh chóng lên đường”. Hoa Dương phu nhân nhìn cái vẻ đắc ý của Phạm Thư và Tử Hề, phẫn nộ hỏi một câu: “Việc này ngoài Tử Hề không còn ai gách vác được sao?” Phạm Thư không chút e dè đem quốc thư đưa cho Hoa Dương nói: “Trong này mời đích danh Tử Hề đi, chúng tôi tự tiện thay người, chính là phạm tội bất hiếu với nước Sở!”
Doanh Trụ nói: “Phạm tướng quốc, người xem tốt nhất nên để ai đi làm con tin?”
Phạm Thư nói: “Còn hai mươi hai công tử nữa, ai đi cũng được. Dị nhân rất thích hợp. Đây chỉ là thiển ý của tại hạ mà thôi, cuối cùng vẫn phải do Thái tử điện hạ định đoạt”
Tử Hề đi sứ nước Sở, có quốc thư của Khoảnh Tương vương, lại có lệnh của Chiêu Tương vương, Hoa Dương phu nhân cũng chỉ còn cách nghe theo.
Vậy mà chẳng bao lâu Hoa Dương phu nhân đã vén được bức màn bên trong việc Tử Hề đi sứ. Hóa ra vị Tả Đồ phụng mệnh Khoảng Tương vương mang bức thư chẳng biết đầu cua tai nheo thế nào lại có chút quan hệ thân thuộc với Hoa Dương quân. Rời khỏi cung Chương Đài chỗ Chiêu Tương vương, liền đến thăm chỗ Hoa Dương quân. Chẳng biết lòng dạ để đâu lại đem việc Tử Hề yêu cầu đi Sính Đô mừng thọ Sở vương và Sở vương phái ông ta mang quốc thư đi sứ như thế nào nói ra hết.
Khi Hoa Dương quân và người này nói chuyện với nhau, mau chóng đã hiện ra tình cảnh người nói vô ý, người nghe hữu tình. Hoa Dương quân thấy rõ việc này Phạm Thư đã làm tay chân. Hoa Dương quân nghĩ: “Phạm tướng quốc, tiếc rằng ông không thể qua được con mắt của Hoa Dương quân này”.
Sau khi vị Tả Đô này rời khỏi chỗ của Hoa Dương quân lại lên lầu Loan Ô bái kiến Hoa Dương phu nhân. Hoa Dương phu nhân vì việc Tử Hề đi sứ nước Sở mà trong lòng tức tối, nên tiếp đãi vị Tả Đồ đến từ quê hương mình với vẻ mặt lạnh lùng. Tả Đồ thấy vị Thái tử phi xinh đẹp này mặt mày rầu rĩ, dường như không mấy hứng thú với sự viếng thăm của mình nên cũng chào hỏi vài câu xã giao rồi đứng dậy cáo từ.
Doanh Trụ vẫn chưa tới, Hoa Dương phu nhân buồn rầu gọi con hầu Tiểu Song vào đánh cờ với mình. Hoa Dương phu nhân và Tiểu Song, tay cầm hộp gốm đựng cờ ngồi bên chiếc bàn con. Đen trước, trắng sau. Hoa Dương phu nhân dùng những ngón tay búp măng nõn nà của mình đã đặt một quân cờ vào bàn cờ. Tiểu Song không hề suy nghĩ cũng thêm vào một cây cờ. Hoa Dương phu nhân lại nhúm một cây, cánh tay dừng lại ở giữa. Suy nghĩ muốn đặt lại không đặt.
Tiểu Song nhìn thấy, trời chiều đã lọt qua song cửa, đem ánh sáng trắng như dải lụa lọt vào trong phòng. Ánh sáng lóa mắt chia khuôn mặt Hoa Dương phu nhân làm hai phần sáng tối. Phần bị ánh sáng chiếu sáng làm hiện lên cơ thể đầy đặn, kiều diễm thoát tục khiến người ta có thể nảy sinh những dục vọng ve vãn. Phần không được chiếu sáng, tạo ra sự u buồn, ám ảnh đầy vẻ thấp thỏm mong ngóng. Nghĩ đến đây Tiểu Song lại nhìn thấy hình bóng bí hiểm của mình ra vào tướng phủ.
“Đi đi chứ!” Hoa Dương phu nhân không biết từ lúc nào đã đặt cây cờ trong tay của mình vào bàn cờ. Tiểu Song như vừa tỉnh giấc mơ lại đi một cây cờ. Khi bàn cờ đã đầy một nửa thì Hoa Dương quân tới. Hoa Dương quân đi thẳng vào vấn đề nói: “Thái tử phi, tôi có chuyện quan trọng cần bẩm báo”. Hoa Dương quân thấy Tiểu Song đang bốc những quân cờ vào hộp. Thu dọn xong, Tiểu Song lui ra.
Hoa Dương quân đem chuyện Tử Hề đi sứ nước Sở kể cho Hoa Dương phu nhân nghe.
Hoa Dương phu nhân nghe xong, hỉ mũi một cái nói: “Tên Phạm tướng quốc này thật là một lão tặc gian thần, chúng ta phải tương kế tựu kế”. Hoa Dương quân không rõ ý người chị xinh đẹp của mình như thế nào.
Hoa Dương phu nhân nói: “Vừa rồi chằng phải Phạm Thư nói để Dị Nhân đi làm con tin ở Hàm Đan hay sao? Chúng ta cũng sẽ lấy danh nghĩa Dị Nhân viết cho Khoảnh Tương vương một bức thư, cầu khẩn ông ta cho Dị Nhân đi dự lễ mừng thọ của ông ấy. Đợi Dị Nhân đi tới nước Sở rồi, ta sẽ nói với An Quốc quân đợi hai vị công tử từ Sở trở về sẽ quyết định ai đến Hàm Đan làm con tin”.
Sở Khoảnh Tương vương lại nhận được thư của Dị Nhân xin tham gia lễ mừng thọ, cười ngặt nghẽo, nói: “Đúng là mặt trời mọc ở đằng Tây, chiếu cung điện nước Tần đến chỗ ta. Chẳng lẽ các vương tôn nước Tần lại tranh nhau mang lễ vật đến mừng thọ quả nhân sao? Không từ chối người đến, ta sẽ phái một Tả Đồ tới nước Tần mời Dị Nhân”.
Hạ Cơ vì sắc đẹp sớm tàn phai bị An Quốc quân lạnh nhạt bỏ xó trong hậu cung không để mắt tới. Khi Tả Đồ của nước Sở đến mời con trai mình là Dị Nhân đến dự tiệc mừng thọ, hai mẹ con vẫn bị bịt tang trống, không biết rằng mọi người đang vì chuyện con tin mà ngấm ngầm bày mưu tính kế.
Hạ Cơ vốn là người con gái trong dân gian bị quân Tần bắt được khi đang vây thành của nước Trịnh, làm phục dịch trong hậu cung. Sau một lần được An Quốc quân sủng ái mà có thai. Ít lâu sau sinh hạ được bé trai một mắt cao một mắt thấp. Hạ Cơ sai cung nữ mời An Quốc quân tới xem mặt đứa con của ông ta, đặt cho nó một cái tên. Vị Thái tử phong lưu này, đâu còn nhớ tới người cung nữ phục dịch có dáng người thô kệch, tướng mạo bình thường này. Khi có người nói với ông ta Hạ Cơ xinh con và mời ông tới xem, ông nghĩ mãi mới nhớ ra cái cô Hạ Cơ này. Phụ nữ sinh con thì có gì đáng xem? Hình dạng của đứa trẻ này chẳng có chút dị thường sao? Vậy thì gọi nó là Dị Nhân đi.
Cái tên mà Doanh Trụ tặng cho đứa con thứ bảy này là Dị Nhân. Hai mẹ con Dị Nhân sống ở trong hậu cung giữa các mĩ nữ như hai cây cỏ dại lay lắt trong ruộng, không có hương thơm, không được ai chú ý. Đơn độc lạnh lẽo, tự sinh tự diệt. Trong một cơ hội ngẫu nhiên gặp được Trần Cơ là vợ chính của Vũ An quân đến tứ ấp Trần nước Trịnh, hai người đồng hương chuyện trò rỉ rả. Trần Cơ rất thông cảm với cảnh ngộ của Hạ Cơ, về đến nhà kể hết với Bạch Khởi. Bạch Khởi kể khắp trong triều ngoài chợ nỗi bất bình của Hạ Cơ, còn lấy vị quân uý ở bên cạnh mình Chu Kiệm văn võ song toàn sang chỗ Hạ Cơ, làm Thái phó cho Dị Nhân.
Trong tình thương và sự đùm bọc của Hạ Cơ, Dị Nhân ngày một khôn lớn. Vậy mà đôi mắt bên cao bên thấp, không đều nhau của Dị Nhân đang trở về đường trung bình. Cái đôi mắt hơi lồi ra ấy long lanh có thần, vui như mắt rồng. Vầng trán cao rộng, sống mũi thẳng. Hạ Cơ ngắm con của mình càng thấy nó giống quân vương. Sự mong ngóng trông đợi của Hạ Cơ vào con trai Dị Nhân của mình đang từng ngày từng ngày trôi đi mất. Bà mãi về sau mới biết được tin cháu của vua Tần phải tới Hàm Đan làm con tin, bà âm thầm cầu khấn cho Dị Nhân, không muốn đứa con trai của mình sang nước khác làm con dê thí mạng. Bà nghe người ở trong cung nói với nhau, làm con tin sẽ gian khổ và nguy hiểm như thế nào. Bình thường có nhà không được về, một khi hai nước trở mặt giao chiến với nhau, con tin nếu nhẹ thì cũng bị mang ra làm trò đùa, nặng thì bị giam cầm giết chết. Thỉnh thoảng nghĩ tới đứa con có thể trở thành con tin, Hạ Cơ không rét mà cảm thấy run.
Càng nghĩ Hạ Cơ càng cảm thấy lo sợ. Khi Sở Khoảnh Tương vương sai Tả Đồ tới mời Dị Nhân làm sứ thần tới Sính Đô dự lễ mừng thọ thị trong lòng bà thư thái hơn rất nhiều. Bà tháy An Quốc quân Doanh Trụ lúc này không thể phái một công tử của mình đi làm con tin. Việc này luôn làm Hạ Cơ không yên, làm việc gì cũng hỏng. Nghĩ đi nghĩ lại, bà thấy cần phải đến thỉnh cầu Doanh Trụ, nói rõ lợi hại, tuyệt đối không thể để Dị Nhân tới Hàm Đan làm con tin. Hạ Cơ biết, Doanh Trụ một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, giống như một cái rễ cây cắm trong phòng Hoa Dương phu nhân. Hạ Cơ nghĩ không sai, khi bà tới cung Loan Ô, Doanh Trụ đang ở đó. Trong một năm, Hạ Cơ không mấy khi tới đây. Ở đây vàng bạc rực rỡ, các trang trí sặc sỡ yêu kiều, tiếng đàn tiếng sáo dìu dặt. Có cả những lễ vật, điệu múa của người Hung Nô, Tiên Ti hoàn toàn tương phản với sự lạnh lẽo, vắng vẻ với nơi ở của Hạ Cơ. Ngày tháng trôi qua, Hạ Cơ từ lâu đã quen với cuộc sống như thế. Bà còn tự răn mình, nếu Doanh Trụ không quan tâm đến bà thì bà cũng phải chịu. Khi Hạ Cơ nhìn thấy Doanh Trụ thì vị An Quốc quân này đang hầm hầm giận dữ với hai người thiếp khác. Hạ Cơ mau chóng hiểu ra tất cả, hai người thiếp này cũng đến để thưa rằng con họ không thể đến thành Hàm Đan làm con tin.
Hạ Cơ thấy vị phu quân này tự mình không thể tùy tiện gặp mặt, thẹn quá hóa giận, đang nhiếc móc hai người thiếp kia: “Ta vẫn chưa nói để ai đi, các người nước mắt ngắn nước mắt dài đến đây khóc lóc làm gì? Con ngươi có bệnh, con ngươi yếu đuối, vậy thì để ai đến Hàm Đan? Để ta đi chắc? Ngày xưa Vũ vương cho phụ vương đi làm con tin, phụ vương không rơi một giọt nước mắt, uy phong lẫm liệt ra đi. Các ngươi là một lũ hám lợi tránh hại, không hề nghĩ cho non sông xã tắc. Mai này không còn nước Tần nữa, để ta xem các ngươi lấy gì mà sống! Hừm, vào lầu xanh bán thân cũng không xong”.
Hai người này bị Doanh Trụ mắng cho một trận, không nói được câu nào lủi thủi ra về. Hạ Cơ vội quỳ xuống thỉnh an Thái tử điện hạ. Mặc dù đã có sự chuẩn bị nhưng những lời nói vừa rồi của Doanh Trụ cũng khiến bà hoảng sợ, lắp ba lắp bắp, hơn nữa ở đây còn có Hoa Dương phu nhân.
Doanh Trụ lạnh nhạt nói: “Con mụ già đến đây làm gì, lại muốn ta lặp lại những lời vừa nãy hay sao?” Nước mắt Hạ Cơ trào ra, bà dường như nhìn thấy vẻ mặt mãn nguyện của Hoa Dương phu nhân hiện rõ trên mặt. Trước mặt Doanh Trụ, ý chí của bà bị tan đi như băng vậy.
Lúc Hạ Cơ trở về nghe tiếng ngọc đai đeo ở lưng giòn lạnh như tiếng giọt mưa.
Hoa Dương phu nhân thấy mọi người đã về cả rồi mà Doanh Trụ vẫn ngồi đó tức tối bèn tới vòng cánh tay nõn nà của mình quanh cổ Doanh Trụ, nũng nịu nói: “Thái tử điện hạ vẫn còn đang giận hay sao?”
Doanh Trụ nói: “Bọn thê thiếp khốn khiếp này chỉ biết nước mắt ngắn nước mắt dài làm ta thật khó xử, đau cả đầu”.
Hoa Dương phu nhân ngồi vào lòng Doanh Trụ nói: “Thái tử điện hạ dễ nổi giận thế, sau này làm Tần vương rồi, phải giải quyết trăm công nghìn việc, ngay như việc cử con tin sẽ rất nhiều, chàng không quyết mà cứ tức giận như thế thì sẽ tức đến chết được! Gặp nguy nan không sợ, gặp sự phiền não không giận, đó là đức tính của bậc quân vương!”
Chỉ một lời nói của Hoa Dương phu nhân đã khiến Doanh Trụ trút hết phiền não, mặt mày tươi tỉnh, vẫn là sự chăm sóc tỉ mỉ, lời nói thấu tình đạt lý của Hoa Dương phu nhân. Quả thực như thế, sau này làm Tần vương rồi, những việc khó khăn hơn việc cử con tin rất nhiều, chàng có thể tức giận mãi được không?
Doanh Trụ vuốt má Hoa Dương phu nhân hỏi: “Ái phi, chuyện đã đến mức này, nàng xem sai công tử nào đi Hàm Đan là tốt nhất?” Hoa Dương phu nhân nói: “Mấy hôm nay thiếp luôn nghĩ tới việc này cho Thái tử điện hạ. Thiếp vốn cho rằng nên để Tử Hề đi, sau đó nghĩ lại thấy việc đó không ổn. Như vậy sẽ đắc tội với bọn Phạm Thư, Đỗ Thương. Thiếp thấy nên xem một quẻ bói để xin ý thần linh ra sao. Ý nguyện của thần để ai đi thì người đó đi. Như vậy người đi cũng không thể thoái thác được, cũng không thể oán trách được Thái tử điện hạ”.
Doanh Trụ sung sướng nói: “Ái phi thật cao kiến”.
Hoa Dương phu nhân nói: “Việc này không thể chậm trễ, đợi Dị Nhân và Tử Hề ở nước Sở về, lập tức mời thấy bói bốc quẻ”.
Doanh Trụ nói: “Thiện tai!”
Hạ Cơ không nề hà hỏi Dị Nhân một câu: “Con trai, con hỏi chắc chưa?” “Hỏi chắc rồi, hoàn toàn chính xác. Thầy bói bốc quẻ ngày mai là hoàn toàn bịp bợm. Con vừa từ Sính Đô trở về, người mỏi rã rời, lại còn phải chạy đến chỗ thầy bói mù kia!” Dị Nhân oán giận nói, Hạ Cơ trách móc: “Con thật là không biết lý lẽ gì cả! Đây là một việc rất lớn! Lại là việc của con, hơn hai mốt tuổi rồi, đi một đoạn đường thì có nghĩa lý gì!”
Hạ Cơ vừa nói như vậy, Dị Nhân không lên tiếng nữa.
Dị Nhân sống trong cảnh mẹ mình bị lạnh nhạt, tính cách lập dị, lẻ loi cũng kèm theo tinh thần phản kháng không khuất phục số phận. Không giống như các công tử khác, luôn lấy lòng phụ thân, làm thân chó ngựa, tụ họp bè đảng. Dưới sự đốc thúc của Hạ Cơ, cùng với Chu Kiệm người thân cận của An Vũ quân Bạch Khởi học tập văn võ. Nhưng sự kiềm chế trong thời gian dài đã tạo nên tính cách nhấp nhổm không yên. Suy tính thiệt hơn. Phàm làm việc gì cũng ôm ấp hoài bão, muốn thử xem làm sao, ngộ nhỡ gặp khó khăn gian khổ thì lại trách trời oán người, xịt hết hơi.
Hạ Cơ gói lấy trăm lạng vàng đến chỗ thầy bói. Thầy bói sống trong nhà Chúc Từ bên cạnh cung Chương Đài. Vị thầy bói của vương thất này tướng mạo tinh anh, đôi mắt có thần, dường như có thể loé lên thể hiện ánh sáng của thần linh. Vị thầy bói này xưa nay không có qua lại gì với Hạ Cơ nhưng đều biết nhau.
Vừa thấy phu nhân Thái tử thân tới Chúc Từ, thầy bói vội cúi đầu thi lễ.
Hạ Cơ nói: “Miễn lễ”.
Thầy bói khiêm nhường hỏi: “Muộn thế này Thái tử phi còn thân chinh đến đây, không biết có gì chỉ bảo?”
Hạ Cơ hỏi: “Việc bốc quẻ ngày mai do ông chủ trì phải không?”
Thầy bói nói: “Vâng”
Hạ Cơ nói: “Ông học thuật cao thâm, đoán được mệnh trời. Tôi và Dị Nhân cô độc lạnh lẽo, số mệnh nương tựa vào nhau. Nếu như Dị Nhân phải đến Hàm Đan xa xôi, đối với tôi khác nào trời tuyết thêm sương, chắc tôi không thể sống được. Hôm nay tôi mạo muội tới đây, chính là vì việc này. Xin ông bẩm báo với thần linh, đừng phái Dị Nhân tới Hàm Đan làm con tin. Đây là một trăm lạng vàng, xin ông vui lòng nhận cho. Nếu được như thế, mẹ con tôi sẽ không bao giờ quên”.
Hạ Cơ nói xong đặt túi vàng lên trên bàn.
Ông thầy bói là người thông minh, biết rõ thịnh tình của Hạ Cơ. Kết quả quẻ bói ngày mai, cho dù có phải là Dị Nhân hay không thì cũng không được nói là Dị Nhân. Nghĩ đến đây, ông hiểu ý nói: “Tôi đã hiểu dụng ý của Thái tử phi, xin hãy yên tâm mà về đi. Thần linh nhân từ, lấy thiện làm gốc, sẽ để cho Thái tử phi được toại ý”.
Hạ Cơ đẩy hai cánh cửa nặng chình chịch của nhà Chúc Từ bước ra, để lại phía sau không gian đen kịt và niềm hy vọng vô hạn. Chiều hôm sau, nghi lễ bốc quẻ được cử hành tại cung Chương Đài. Ánh mặt trời chênh chếch, bị làn khói hương quấn lấy lộ rõ màu trắng xanh. Các loại nhạc khi phát ra âm thanh réo rắt, mơ hồ không rõ như nồi canh đang hầm trên bếp. Tiếng mỡ lách chách chảy ra từ những miếng mai rùa, xương thú đang nướng trên than. Thỉnh thoảng lại vang lên những âm thanh phát ra do mai rùa, xương thú bị đốt nóng, truyền đi rất lâu trong cung điện rộng. Mùi khói lửa mang theo cái mùi tanh tanh, mọi người đứng đầy hai bên. Doanh Trụ và Hoa Dương phu nhân đã tới. Còn có một số quan sử mũ cao áo rộng, họ đều là các hoàng thân quốc thích, thầy bói, sứ uỷ có liên quan đến bốc quẻ và ngoại giao. Các thầy bói đeo mặt nạ, mặc áo lễ đang vây lại mỗi lúc một đông bên những vết nứt của mai rùa, xương thú bàn tán, phán xét.
Hạ Cơ cảm thấy tim mình đập thình thịch, dường như sắp bắn ra khỏi lồng ngực. Bà cảm thấy phía trước như có một làn sương mù bao phủ. Vị thầy bói đang ngồi trước bàn thờ lắc la lắc lư kia không phải là vị thầy bói hôm qua. Định thần lại, bà cảm thấy chính là ông ta. Bà buồn cười vì mình quá lo sợ mà nhìn ra như vậy.
Ánh lửa chiếu vào những người ngồi xung quanh đã nhạt đi, những vết nứt trên mai rùa xương thú càng rõ, càng tỉ mỉ. Kết quả chiêm bốc lập tức được công bố.
Thầy bói bỏ mặt nạ xuống và bắt đầu tiên đoán về những vết nứt kỳ quặc trên các mai rùa, xương thú.
Vào cái khoảnh khắc mà thầy bói bỏ mặt nạ ra, Hạ Cơ ngạc nhiên há hốc mồm, đó đâu phải là viên thầy bói cỏ thi mà là một gã gieo quẻ lạ hoắc. Hạ Cơ như vướng vào một mớ bòng bong, lơ mơ không hiểu: thế này là thế nào? Người đàn bà đáng thương ở chốn hậu cung này đâu có hay, chút ân huệ mà bà giành cho viên thầy bói cỏ thi ấy, nếu đem so với “chiêu” của những kẻ đã lão luyện ngón nghề đấu đá ở chốn cung đình như Phạm Thư và Đỗ Thương thì chỉ như trứng đem chọi với đá mà thôi. Ngay khi An Quốc quân tuyên bố việc chọn ai đi Hàm Đan làm con tin sẽ nhờ gieo bói cỏ thi quyết định, Phạm Thư đã nhắm ngay tới viên thầy bói ấy. Tối hôm ấy, khi Hạ Cơ đến điện thờ nhờ viên thầy bói, nhất cử nhất động, từng câu từng lời của hai người đã được một kẻ báo lại cho Phạm Thư không sót một chi tiết nhỏ. Sau đó, Phạm Thư sai hai thích khách bịt mặt, trói viên thầy bói đó lại đưa đến giam ở một hang núi thành Hàm Dương. Doanh Trụ thấy viên thầy bói mất tích liền sai Phạm Thư tìm một viên thầy bói khác để chủ trì nghi lễ vào ngày mai. Phạm Thư tìm về một thầy bói có thể hành sự theo ý mình và căn dặn hắn những điều cần nói, những việc cần làm.
Những việc này đối với Hạ Cơ vĩnh viễn là một điều bí mật không thể lường tới.
Viên thầy bói đằng hắng rồi cao giọng tuyên bố: “Dị Nhân là con tin!”
Nghe câu nói ấy, Hạ Cơ cảm thấy đau như xé ruột, ngất đi. Đám đông quần thần sau mấy giây lặng người giờ ồn ã những tiếng tranh cãi.
Viên thầy bói nhắc lại: “Dị Nhân là con tin!”
Hạ Cơ cảm thấy trời đấy xoay chuyển. Được Dị Nhân và Chu Kiệm dìu về tẩm cung. Sau một lát hồi tỉnh, Hạ Cơ nức nở than rằng: “Vũ An quân Bạch Khởi lại đang đi cầm quân, cả thành Hàm Dương này không có lấy nổi một ai giúp ta định đoạt cơ sự!”
Chu Kiệm nói: “Việc này còn mong định đoạt được gì nữa, vương mệnh như sơn, công tử Dị Nhân chỉ còn cách sang Triệu làm con tin thôi”.
Dị Nhân giọng đầy căm giận: “Thế ta không đi thì sao?”
Chu Kiệm nói: “Điều này mà còn phải hỏi sao, nặng thì bị chém, nhẹ thì bị giáng xuống làm thứ dân”.
Hạ Cơ và Dị Nhân đều lặng thinh không đáp. Lát sau một vị quan đại thần của Chiêu Tương vương đến công bố chiếu lệnh của Quốc vương: “Đại vương có lệnh, Tần vương Tôn Dị Nhân sáng sớm mai lên đường sang Triệu, tối nay đến Trương Đài cung dự tiệc đưa tiễn”.
Viên quan đi rồi, Dị Nhân nói: “Bữa tiệc tối nay ta cũng chẳng muốn đi nữa”.
Hạ Cơ nói: “Con không đi là kháng mệnh bất kính”.
Chu Kiệm cũng nói: “Mẫu hậu nói rất phải. Công tử phải đi”.
Hạ Cơ rằng: “Dị Nhân con ta, xem ra con phải đi rồi. Mẹ không thể cùng con tới Chương Đài cung uống rượu, mẹ sẽ ở nhà thu xếp tư trang cho con!”
Dị Nhân nói: “Vội gì cơ chứ!”
Chu Kiệm nói: “Thái tử phi đại nhân, từ khi đại thần được Vũ An quân sai tới đây, Thái tử phi và công tử đối đãi không bạc, bề tôi nguyện tri ân báo đáp. Công tử đại nhân cất bước tha hương, lành dữ khó lường, họa phúc đâu biết, một mình quạnh quẽ, vắng bóng người thân, công tử cần có một người bạn, dám xin Thái tử phi cho kẻ hạ thần này được làm tên đánh ngựa hầu hạ công tử đến Hàm Đan”.
Hạ Cơ nghe Chu Kiệm nói mà trong lòng vô cùng xúc động.
Hạ Cơ cho Chu Kiệm về nhà từ biệt cha mẹ.
Dị Nhân bước ra từ Chương Đài cung, khoát tay gạt hai tên thái giám đang đỡ hai bên, liêu xiêu đi về. Bước vào phòng, nhìn thấy Hạ Cơ liền nói: “Mẫu hậu, nhi thần uống hơi nhiều! Quả là một lũ người không ra người, đầu to bụng phệ, hả hê với nỗi đau khổ của người khác! Đợi sau này nhi thần xưng vương, sẽ phanh thây xẻ thịt chúng ra, cho chúng không có chân mà đi, cho chúng chỉ là những bộ xương, những hũ mắm!”
Hạ Cơ thấy Dị Nhân đã say vội sai cung nữ dìu công tử về giường. Dị Nhân vừa đặt lưng xuống đã ngủ thiếp đi...
Khi Dị Nhân mở mắt ra đã thấy mình đang nằm trên chiếc xe ngựa do Chu Kiệm cầm cương. Trên xe có chất rương hòm, dao kiếm và cờ tiết. Trời cao đất rộng, chung quanh là một không gian hoang dã mênh mông. Mặt trời chiếu những tia nắng chói chang xuống con đường quanh co uốn khúc. Ngồi phía trước là Chu Kiệm, tay vung dây cương, phong thái thanh nhàn. Dị Nhân chợt giật mình, giọng rung lên theo tiếng lắc lư của xe: “Đây là đâu?”
Chu Kiệm đáp: “Chúng ta đang ở con đường lớn giữa Hàm Dương và Hàm Đan”.
Dị Nhân lại hỏi: “Nói vậy nghĩa là sáng nay các ngươi đã khiêng ta lên xe hay sao?”
Chu Kiệm đáp: “Đại vương có lệnh sáng sớm phải lên đường, không được chần chừ”.
Dị Nhân từ trên xe nhảy xuống, ghìm cương ngựa lại nói: “Chu Kiệm, ngươi đưa ta đến ẩn náu ở phong ấp của An Vũ quân, bọn chúng sẽ không tìm thấy ta! Ai muốn đến Hàm Đan thì đến!”
Chu Kiệm dừng xe an ủi: “Chứa chấp kẻ kháng chỉ tội cũng nặng như vậy, liệu Vũ An quân dám chăng? Nếu không đến Hàm Đan làm con tin hậu quả nghiêm trọng như thế nào, hạ thần đã nhiều lần thưa cùng công tử, nhẹ thì phế truất làm dân thường, nặng thì bị sát thân diệt tộc. Nếu đến Hàm Đan làm con tin, chịu qua được sóng gió này, chí ít công tử cũng còn có thể quay lại thành Hàm Dương, vẫn là Tần vương tôn. Nếu kịp chuyển mình theo thời thế, còn có thể được thăng tước thăng vị. Một bên là thân bại danh liệt, đại họa trước mắt, một bên là khổ tận cam lai, tiền đồ sáng lạn, đi theo hướng nào công tử hãy tự mình lựa chọn!”
Chu Kiệm nói thêm: “Đến nước Triệu rồi, chúng ta phải biết nắm lấy thời cơ. “Kinh Thi-Tiểu Nhã” đã nói: Trăm con sông nước cuộn sục sôi, ngàn vách đã cheo leo hiểm trở; vách cao thì tạo nên vực sâu, vực sâu thì lại có núi non. Thủy vô định hình, nhân vô định thế! Lợi hại là ở chỗ biết nắm bắt thiên thời địa lợi nhân hòa mà vận dụng cho mình”.
Dị Nhân lên xe, Chu Kiệm lại cho xe xuất phát hướng tới Hàm Đan xa xôi. Dị Nhân đã thấy lòng thanh thản đôi chút liền nói với Chu Kiệm: “Kể chuyện gì nghe đi, đi đường dài buồn quá”.
Chu Kiệm đáp: “Xin vâng, chúng ta đang trên đường sang Triệu, vậy kẻ hạ thần xin kể cho công tử nghe chuyện một con tin ở nước Triệu”.
Hồi ấy, sau khi Triệu Huệ Văn vương băng hà chưa được bao lâu, Triệu Hiếu Thành vương mới đăng cơ, tuổi còn nhỏ, chưa rành thế sự, việc triều đình nước Triệu do một tay Triệu thái hậu nắm giữ. Nước Tần chúng ta thấy đây là một cơ hội, Chiêu Tương vương liền liên minh với nước Yến đánh nước Triệu. Triệu thái hậu nhận thấy Triệu quốc thế đơn lực mỏng, không thể chống chọi với liên minh Yến Tần nên cầu viện nước Tề. Tề vương đồng ý xuất binh nhưng có một yêu cầu rất khắc nghiệt, đó là con trai nhỏ của Triệu thái hậu là Trường An quân phải sang nước Tề làm con tin.
Trường An quân là bảo bối tâm can của Triệu thái hậu, được Thái hậu nhất mực thương yêu, Thái hậu dĩ nhiên không cho công tử sang Tề quốc làm con tin. Nguy cơ liên quan Tần Yến tấn công nước Triệu ngày càng nguy ngập, nước Triệu đã rơi vào tình thế cấp bách sinh tử tồn vong. Các văn võ bá quan thay nhau khuyên can Triệu thái hậu, hãy để Trường An quân sang nước Tề làm con tin, Tề quốc sẽ xuất binh sang cứu viện nước Triệu.
Triệu thái hậu không đồng ý, còn cao giọng tuyên bố: “Ai dám tiếp tục đến khuyên ta để Trường An quân đi làm con tin, ta sẽ nhổ vào mặt kẻ đó!”
Thấy Thái hậu bảo thủ cố chấp như vậy, quần thần khiếp sợ không dám manh động nữa. Lần này có một viên quan tên Xúc Long, thấy quốc sự nguy cấp mà lòng đem lo lắng, quyết tâm sẽ đến khuyên can Triệu thái hậu. Người nhà đều khuyên ông đừng đi, có đi cũng chỉ chút lấy bẽ bàng, không cẩn thận thì giơ mặt cho Thái hậu phỉ nhổ.
Xúc Long nói: “Ta tự có cách chuyển Thái hậu”. Triệu thái hậu đoán Xúc Long cũng chỉ đến vì việc đó nên nổi giận đùng đùng, cố ý chờ đợi. Xúc Long vào cung bộ dạng cung kính, khoan thai đến trước mắt Thái hậu tạ tội mà rằng: “Chân lão thần bị đau, không đi nhanh được. Lâu lắm rồi không vào yết kiến Thái hậu, biết mình có tội mà cũng chỉ tự dám nương tội cho mình. Có điều lòng hạ thần luôn lo lắng về sức khỏe cho Thái hậu, không hay Thái hậu có được an khang, nên hôm nay muốn đến vấn an Thái hậu”.
Triệu thái hậu trả lời: “Ta ngồi xe thì được, đi bộ thì không nổi”.
Xúc Long lại hỏi: “Thế Thái hậu dùng bữa có được ngon miệng không?”
Thái hậu đáp: “Ta chỉ ăn cháo được thôi”.
Xúc Long liền tiếp lời, tâu với Thái hậu dăm ba điều dưỡng sinh: “Trước đây lão thần cũng khẩu vị không tốt, ăn không ngon miệng, sau đó đã tự ép mình phải đi bộ luyện tập, mỗi ngày kiên trì đi vài dặm, ăn dần dần thấy ngon hơn, cơ thể cũng thấy dễ chịu hơn”.
Triệu thái hậu thấy Xúc Long không đả động đến chuyện Trường An quân, sắc mặt đã tươi vui trở lại nói: “Ta đâu thể đi xa được thế”.
Xúc Long đáp: “Lão thần có một đứa con trai, tên gọi Thư Kỳ, văn võ kém cỏi, thần thương yêu nó nhất, giờ thần tuổi đã cao, xin Thái hậu khai ân cho nó làm chức vệ sĩ áo đen để bảo vệ vương cung”.
Triệu thái hậu rất nể mặt Xúc Long, đồng ý ngay rồi hỏi: “Thế con trai ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”
Xúc Long đáp: “Mười lăm tuổi rồi, dẫu nó còn hơi nhỏ tuổi một chút nhưng thần vẫn mong Thái hậu sẽ tiếp nhận nó trước khi nó được làm vệ sĩ, được như vậy lão thần dẫu có chết cũng không hối tiếc”.
Triệu thái hậu giễu cợt hỏi lại: “Bọn đàn ông các ngươi mà cũng yêu con trai mình thế sao?”
Xúc Long cũng đáp lại không kém: “Bọn đàn ông chúng thần còn yêu con trai mình hơn cả mẹ chúng”.
Triệu thái hậu cười nói: “Đã nói đến chuyện yêu thương con trai, thì đàn bà bọn ta phải hơn bọn đàn ông các ngươi”.
Xúc Long nói: “Cũng chưa hẳn là như vậy. Lão thần thấy Thái hậu yêu Yến hậu còn hơn cả Trường An quân”
Thái hậu phản bác: “Người nhầm rồi, ta yêu nhất vẫn là Trường An quân con trai ta!”
Xúc Long làm bộ nói: “Cha mẹ yêu thương con cái thì phải nhìn xa trông rộng cho chúng. Còn nhớ khi Yến hậu xuất giá, công chúa lên xe rồi mà Thái hậu còn níu chân công chúa mà khóc, cứ nghĩ đến việc gả con tới nơi xa xôi là trong lòng lại buồn đau. Công chúa đi rồi, Thái hậu ngày đêm thương nhớ, tâm tư vấn vương, chẳng phải Thái hậu rất nhớ công chúa sao? Nhưng cứ mỗi khi cúng tế thì Thái hậu vẫn khấn cho công chúa rằng, đừng bao giờ công chúa phải quay trở lại! Thế chẳng phải Thái hậu đã nghĩ tới chuyện lâu dài cho công chúa đó sao, chẳng phải người sợ công chúa phạm vào điều gì thất thố mà bị người ta đuổi về hay sao? Thế chẳng phải Thái hậu mong công chúa sẽ con đàn cháu đống để thay nhau kế nghiệp quân chủ nước Yến sao?”
Triệu thái hậu giọng quả quyết: “Đúng như vậy! Quả là ý ta”.
Xúc Long lại nói: “Thái hậu thử nghĩ xem. Từ ba đời trước cho tới nay, con cháu Triệu vương tại vị xưng hầu có được ai không?” “Không có!” “Chẳng riêng nước Triệu, các nước chưa hầu khác cũng đang tính, liệu có còn có ai có thể duy trì gia tộc địa vị quý tộc ba đời không?” “Cũng không có!”
Xúc Long nhận thấy những điều mình nói đã thuyết phục được Thái hậu, liền khảng khái nói liền một mạch: “Đây gọi là bản thân mình chịu họa trước mắt, con cháu mịnh chịu di họa sau này. Phàm là kẻ có chút địa vị đều tham vọng con cháu hậu duệ củng cố địa vị ấy. Ấy vậy mà tại làm sao không có ít con cháu các bậc qu
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Lã Bất Vi Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Lã Bất Vi   Lã Bất Vi Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Lã Bất Vi
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
»-(¯`v´¯)-»·.·´¯`·)»::A2::»-(¯`v´¯)-»·.·´¯`·)»  :: Tryện :: Truyện dài-ngắn-
Chuyển đến